Sáng kiến kinh nghiệm Tăng cường hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc sử dụng các giai thoại trong dạy học Lịch sử 10 ở trường THPT Mường Lát

“ Giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng niềm tin”, là đào tạo “người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo”. Để đảm đương được mục tiêu quan trọng đó ở “thời mở cửa, hội nhập”, giáo dục luôn phải có sự điều chỉnh cho phù hợp. Có thể nói đổi mới giáo dục là nhiệm vụ hàng đầu của nền giáo dục nước ta. Một trong những vấn đề cơ bản của đổi mới giáo dục là đổi mới phương pháp dạy học.

Đổi mới phương pháp dạy học là quá trình lấy “ học” làm trung tâm thay vì lấy “dạy” làm trung tâm. Trong phương pháp tổ chức, người học – đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó, tự mình khám phá những điều mình chưa rõ, chưa có chứ không phải thụ động tiếp thu kiến thức từ những tri thức do giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống cụ thể, người học được trực tiếp quan sát, thảo luận, giải quyết vấn đề theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không rập khuôn theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng, sáng tạo. Dạy học theo cách này giáo viên không chỉ đơn giản là người truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn hành động, thực hiện theo phương châm “ Thầy chủ đạo, trò chủ động”

doc 22 trang SKKN Lịch Sử 05/10/2025 180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tăng cường hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc sử dụng các giai thoại trong dạy học Lịch sử 10 ở trường THPT Mường Lát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tăng cường hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc sử dụng các giai thoại trong dạy học Lịch sử 10 ở trường THPT Mường Lát

Sáng kiến kinh nghiệm Tăng cường hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc sử dụng các giai thoại trong dạy học Lịch sử 10 ở trường THPT Mường Lát
 các nhân vật bằng các kênh thông tin khác nhau như sách báo, mạng internet Đây là một bước quan trọng để rèn cho học sinh khả năng ghi nhớ, khắc sâu đặc điểm của các nhân vật lịch sử mà không làm mất quá nhiều thời gian ở trên lớp khi giáo viên phải kể về các nhân vật này. 
	Ví dụ 2: Sau khi học xong bài 18: “ Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X- XV”, ở phần sơ kết bài học, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà sưu tầm tư liệu về các nhân vật sau: Lê Hoàn, Nguyễn trãi.
	Khi học bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X-XV, để tạo biểu tượng về nhân vật Lê Hoàn, Nguyễn Trãi, Giáo viên yêu cầu học sinh kể lại sự hiểu biết của mình về các nhân vật này thông qua quá trình đã tìm hiểu. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh bằng cách cho điểm. 
2.3.2.2. Phương pháp sử dụng các giai thoại lịch sử trong bài học ngoại khoá
	Thông qua các giai thoại lịch sử, các nhân vật lịch sử hiện lên rất sinh động và hấp dẫn. Nhân vật lịch sử có vai trò rất quan trọng trong dạy học Lịch sử. Giáo viên có thể cung cấp tư liệu các giai thoại về nhân vật lịch sử hoặc để học sinh tự sưu tầm sau đó viết kịch bản, dựng thành các tiểu phẩm và hóa thân thành các nhân vật lịch sử bằng cách đóng vai các nhân vật này. Để học sinh hóa thân thành các nhân vật lịch sử không những giúp học sinh ghi nhớ đến các anh hùng, danh nhân của dân tộc mà còn giáo dục các em học tập, noi gương những đức tính tốt đẹp của thế hệ cha anh đi trước trong công cuộc xây dựng và gìn giữ đất nước. Việc khắc sâu biểu tượng trong dạy học Lịch sử là cơ sở để hình thành khái niệm lịch sử, tác động sâu sắc đến tư tưởng tình cảm, hình thành ở các em lòng khâm phục, biết ơn đối với các anh hùng và đồng thời ý thức được trách nhiệm của bản thân trong cuộc sống hôm nay. Do đó, việc khắc sâu biểu tượng nhân vật lịch sử cho học sinh là một nội dung không thể thiếu trong dạy - học Lịch sử. Một trong những cách khắc sâu biểu tượng nhân vật lịch sử cho học sinh trong môn Lịch sử lớp 10 là để học sinh hóa thân thành các nhân vật lịch sử. Thông qua sự tư vấn của giáo viên nhằm đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm, học sinh sẽ tự tìm hiểu và tham gia may đồ, hóa trang thành những nhân vật cách đây hàng trăm năm, tái hiện các giai đoạn lịch sử và những trận chiến của đất nước.
Theo đó, trong các giờ ngoại khóa vào buổi chiều tôi hướng dẫn các em học sinh được hóa thân thành các nhân vật lịch sử, phô diễn tài năng, sở trường của bản thân bằng các vai diễn sinh động, đầy màu sắc trên sân khấu của lớp họcDưới đây là một số ví dụ cụ thể mà tôi đã áp dụng ở các lơp 10E, 10G.
VÍ DỤ
Ở bài 16: Thời Bắc thuộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Để nói về cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc ta trong thời kì Bắc thuộc, học sinh sẽ được thuyết trình và diễn kịch về một trong những cuộc đấu tranh tiêu biểu. Ví dụ như về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và chiến thắng Bạch Đằng năm 939 do Ngô Quyền lãnh đạo.
 Về Hai Bà Trưng :Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh: Hướng dẫn và yêu cầu học sinh tóm tắt, viết kịch bản về cuộc khởi nghĩa hai Bà trưng 
 * Mở đầu, học sinh giới thiệu về Hai Bà Trưng:
 Người phụ nữ Việt Nam luôn được thế giới biết đến với hình ảnh thùy mị, đoan trang nền nã trong tà áo dài truyền thống thướt tha. Bên cạnh đó họ cũng nổi tiếng về tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm mỗi khi đất nước bị các thế lực ngoại bang lăm le xâm chiếm. 
 Hôm nay, chúng ta sẽ quay về Việt Nam vào khoảng năm 111TCN – 40, lúc này nhà Hán đang dần thay thế nhà Triệu thôn tính nước ta, chia nước ta thành các quận, huyện, ra sức áp bức bóc lột nặng nề, bắt dân ta đóng nhiều loại thuế, hằng năm phải cống nạp những sản vật quý hiếm, thi hành chính sách “đồng hóa” đối với dân ta, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. 
 Lúc bấy giờ, ở huyện Mê Linh có hai chị em Trưng Trắc – Trưng Nhị là con gái lạc tướng thuộc dòng dõi Hùng Vương. Chồng bà Trưng Trắc là Thi sách – một chàng trai dũng mãnh con trai lạc tướng huyện Chu Diên. Hai gia đình lạc tướng cùng nhau mưu việc lớn. Giữ thấy một cuộc biến lớn sẽ nổ ra mà cội nguồn từ đất Mê Linh, thái thú Tô Đinh – một con người độc ác, mưu mô đã bắt giết Thi Sách.
 Nhận tin dữ, Trưng Trắc đau đớn ra lệnh nổi trống đồng khởi nghĩa vào mùa xuân năm 40 ở Hát Môn (Hà Nội) quyết rửa nhục cho nước, trả thù cho chồng. bành voi cao nữ chủ tướng Mê Linh mặc áo giáp phục rực rỡ. Nhân dân Mê Linh trông thấy nữa chủ tướng đẹp đẽ, oai phong thì hò reo dậy đất, ào ào bám chân voi, xông ra trận như vũ bão. Ngày xuất quân, bà Trưng Trắc đã đọc lời thề, sau này được viết thành 4 câu thơ:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sử công lênh này”
 Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng và các vị tướng lĩnh tài giỏi quân ta từ Mê Linh tiến xuống Loa thành và Luy Lâu đạp nát tòa đô úy trị của giặc. Đám tàn quân cùng Tô Định kinh hãi chạy thoát thân về phương Bắc. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, đất nước ta sạch bóng quân thù, bà Trưng Trắc được suy tôn làm vua.
 Hai bà Trưng – những người phụ nữ huyền thoại của nên lịch sử Việt Nam, là biểu tượng của ý chí hiên ngang và khí phách quật cường của dân tộc ta, thể hiện tình yêu nước nồng nàn của phụ nữa Việt Nam.
* Tái hiện lại vở kịch “Tiếng trống Mê Linh”: Kịch bản, phân vai, diễn xuất 
( Phụ lục 1)
Về Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 
* Mở đầu, học sinh giới thiệu thiệu về Ngô Quyền
Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898) ở xứ Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội, cùng quê với người anh hùng Bố Cái Đại vương Phùng Hưng. Cha ông là Ngô Mân đã từng làm chức Châu mục Đường Lâm. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã sống trong truyền thống yêu nước của quê hương.
 Đại Việt sử ký toàn thư (ngoại kỷ, quyển 5) mô tả: "Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương, nhân đó (Ngô Mân) mới đặt cho vua tên là Quyền. Khi vua lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc".
Lúc trưởng thành, Ngô Quyền có võ nghệ tinh thông và có chí lớn. Ông đã từng tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La, đã từng theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La năm 931.
Là người có tài đức và ý chí, ngay sau khi chủ tướng Dương Đình Nghệ bị sát hại, Ngô Quyền sớm trở thành linh hồn của ngọn cờ yêu nước.
* Học sinh giới thiệu về Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử
Vùng cửa sông và hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm điểm quyết chiến.
Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là giao thông quan trọng từ biển Đông vào đất Việt. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông.
Sông Bạch Đằng chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Triều lên từ nửa đêm về sáng, cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km. Đến gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh.
Bấy giờ vào cuối năm 938. Trời rét, gió đông bắc tràn về, mưa dầm lê thê kéo dài hàng nửa tháng. Chính trong những ngày ấy, theo kế hoạch của Ngô Quyền, quân và dân ta lặn lội mưa rét, ngày đêm vận chuyển gỗ, dựng cọc.
Hàng nghìn cây gỗ lim, sến, đầu được vạt nhọn và bịt sắt được đem về đây cắm xuống hai bên bờ sông (quãng cửa Nam Triệu hiện nay) thành những hàng dài chắc chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn.
Khi triều rút các hàng cọc mới phơi ra, còn lúc sáng sớm nước mênh mông thì thuyền lớn qua lại hai bên bờ vẫn dễ dàng. Trận địa cọc được tiến hành rất gấp rút và chỉ trong khoảng thời gian hơn một tháng là mọi việc đã hoàn thành.
Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán từ Quảng Đông kéo sang. Cuộc chiến đấu đã diễn ra như sự trù liệu và dự tính của Ngô Quyền đã vạch ra. 
Cả đoàn binh thuyền lớn của Hoằng Thao vừa vượt biển vào cửa sông Bạch Đằng đã bị dồn dắt vào thế trận bố trí sẵn của ta, và bị tiêu diệt trong thời gian ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm xuống biển, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, chủ soái Lưu Hoằng Thao bị giết tại trận. 
	* Học sinh viết kịch bản phân vai nhân vật và diễn lại vở kịch theo sự hướng dẫn của giáo viên ( phụ lục 2)
Với bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỉ X đến thế kỉ XV). Học sinh sẽ khắc họa sự kiện năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long bằng vở kịch sau: Lý Thái Tổ dời đô . Giáo viên giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh viết kịch bản, phân vai diễn tại lớp.
*Tóm tắt: 
Một lần về thăm quê cũ, Lý Thái Tổ đi ngang qua thành Đại La, xét thấy đây là nơi đất rộng bằng phẳng, điều kiện thuận lợi, thích hợp để định đô lâu dài. Ông tham vấn ý kiến quần thần trong triều, vua tôi nhất trí đồng lòng, ông bèn xuống chiếu dời đô về Đại La. Lúc ông đi thuyền đến thành Đại La, ông nhìn thấy phía xa có hình ảnh rồng vàng bay trên đất Đại La, nhân đó đổi tên “Đại La” thành “Thăng Long”, dựng nghiệp đế vương phồn thịnh.
* Kịch bản “ Lý Thái Tổ dời đô” , phân vai nhân vật và kịch bản của lớp 10E( phụ lục 3)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một năm nghiên cứu và thực hiện đề tài: “ Tăng cường hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc sử dụng các giai thoại trong dạy học lịch sử 10 ở trường THPT Mường Lát” ở các lớp mà tôi phụ trách , tôi đã bước đầu thu được những kết quả đáng ghi nhận, cụ thể như sau:
1. Học sinh các lớp tôi dạy đều hưởng ứng với các phương pháp này và có ý thức học môn Lịch sử hơn.
2. Nếu như trước đây, việc học bài cũ với học sinh là một vấn đề “xa xỉ”, chỉ “lác đác” một vài em thì giờ đây,trong các tiết học Lịch sử, các em sôi nổi xung phong lên trả lời bài cũ, đồng thời trong quá trình học trên lớp các em cũng hăng say phát biểu bài, khiến cho giờ học Lịch sử trở nên sôi nỗi, hấp dẫn.
3 . Sau một thời gian sử dụng giai thoại trong dạy học, khả năng thuyết trình, khả năng nói trước tập thể của học sinh được nâng cao,có nhiều vấn đề không hiểu, các em đã mạnh dạn hỏi giáo viên và trao đổi với các bạn ngay tại lớp.Với bài tập về nhà, nếu còn gì vướng mắc, các em đến phòng hoặc gọi điện để trao đổi trực tiếp với giáo viên. Đây là điều tôi mong muốn hơn cả.
4. Khi được giáo viên hỏi về các nhân vật lịch sử nếu trước đây các em đang còn mơ hồ thì bây giờ các em đã có thể kể cho giáo viên và các bạn trong lớp nghe về các nhân vật đó một các rõ ràng, lưu loát, và đặc biệt các em không còn nhầm lẫn nhân vật này với nhân vật khác nữa.
5. Lần đầu tiên tôi thấy hoạt động ngoại khóa của học sinh đạt hiệu quả cao như vậy: các em hăng say sưu tầm tư liệu, viết kịch bản và dũng cảm đóng vai nhân vật.
6. Trong các lần kiểm tra thường xuyên( đặc biệt là kiểm tra miệng) và định kì, tôi nhận thấy chất lượng tăng lên đáng kể. 
 Cụ thể điểm kiểm tra 1 tiết giữa học kì 2 so với học kì 1 như sau: 
Lớp
Điểm kiểm tra định kì
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
10E
Học kì 1
 39
0
14
15
10
0
Học kì 2
2
23
14
0
0
10G
Học kì 1
35
0
15
9
11
0
Học kì 2
2
20
12
1
0
10H
Học kì 1
34

0
10
14
10
0
Học kì 2
3
15
16
0
0
10K
Học kì 1
41
0
10
18
13
0
Học kì 2
3
24
13
0
0
 Đây là kết quả 4 lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy và áp dụng các phương pháp nêu trên. Qua đó có thể thấy được tỉ lệ học sinh khá, giỏi tăng lên đáng kể trong học kì 2 so với học kì 1, không còn học sinh yếu. 
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
 - Hầu hết các bài hoc Lịch sử trong chương trình sách giáo khoa THPT còn dài, lượng kiến thức cho mỗi tiết học nhiều vì thế trong nhiều bài học để đảm bảo đủ lượng kiến thức cung cấp cho học sinh thì cả giáo viên và học sinh đều phải “gắng sức”sẽ gây khó khăn cho việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là việc sử dụng các giai thoại trong dạy học .Vì thế, tôi mong trong những năm tới đây trong đề án đổi mới chương trình SGK, Bộ Giáo dục và Đào tạo, sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá có hướng mới trong việc giải quyết khó khăn này.
- Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề quan trọng trong quá trình giáo dục nhưng nếu không có sự chung tay góp sức của toàn ngành giáo dục thì chỉ mãi là vấn đề “ biết rồi khổ lắm nói mãi”.Vì thế thông qua đề tài, tôi rất mong các nhóm, tổ chuyên môn thường xuyên họp để thảo luận và mạnh dạn áp dụng đổi mới phương pháp dạy học.
- Sở Giáo dục - Đào tạo và nhà trường cần cung cấp nhiều hơn nữa trang thiết bị, đồ dùng dạy học cần thiết cho bộ môn Lịch sử để giáo viên đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học. 
- Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp sử dụng các giai thoại trong dạy học lịch sử như thế nào cho có hiệu quả là một vấn đề đang còn gây ra rất nhiều tranh cải không có hồi kết. Căn cứ vào đối tượng học sinh, vào năng lực tổ chức của giáo viên mà mỗi người có một biện pháp và cách thức khác nhau để đạt được hiệu quả của bài học lịch sử. Tuy nhiên cũng cần phải có sự thống nhất trong một số qui tắc nhất định. Để thực hiện được nhiêm vụ đó, thông qua đề tài này, tôi cũng kính mong Sở giáo dục và Đào tạo thường xuyên tổ chức hơn nữa các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học để các giáo viên trẻ, ít kinh nghiệm như tôi được trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ các giáo viên dày dạn kinh nghiệm ở các trường THPT trong tỉnh.
- Giai thoại không phải là chính sử nên có rất nhiều các nguồn tài liệu khác nhau, vì thế giáo viên phải có sự chọn lọc các tài liệu tin cậy thực sự gây hứng thú và hấp dẫn học sinh đồng thời phải gắn liền với nội dung bài học tránh ôm đồm gây nhàm chán
- Bên cạnh đó, giáo viên cần tăng cường các tiết học lịch sử địa phương, các giờ hoạt động ngoại khóa giáo dục học sinh về truyền thống yêu quê hương đất nước, về tinh thần đấu tranh quật cường trong chiến đấu cũng như trong sản xuất góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp. Đồng thời tạo cho học sinh hứng thú hơn nhằm giúp các em chủ động nắm bắt tri thức một cách toàn diện hơn.
3.2. Kiến nghị
- Cần quan tâm nhiều hơn nữa từ phía các nhà quản lí giáo dục, phụ huynh học sinh và toàn xã hội đối với bộ môn khoa học lịch sử. 
- Trang bị những thiết bị cần thiết cho bộ môn như tranh ảnh, tư liệu, lược đồ, công nghệ thông tin.
- Nhà trường tạo điều kiện hơn nữa để giáo viên tổ chức cho học sinh tham quan, đi thực tế các khu di tích lịch sử, cột mốc biên giới.
- Tổ chức sinh hoạt ngoại khoá tìm hiểu lịch sử địa phương, các danh nhân ở địa phương cũng như của dân tộc.Qua đó giáo dục học sinh về truyền thống yêu quê hương đất nước. Từ đó hình thành nhân cách, ý thức tôn trọng  giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và tinh thần đấu tranh bất khuất của dân tộc nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trên đây là những kinh nghiệm được đúc kết nhiều năm giảng dạy ở bậc THPT rút ra từ bản thân, nhưng chắc chắn rằng không sao tránh khỏi khiếm khuyết. Rất mong quý thầy cô gần xa góp ý để hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn !           
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
 
 Thanh Hóa, ngày 20 tháng 04 năm 2018
 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác
 Lê Thị Tâm

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_tang_cuong_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_si.doc