Sáng kiến kinh nghiệm Thăm quan, tìm hiểu các di tích lịch sử tại địa phương để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc trung học phổ thông
Trong lộ trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục phổ thông đã được Quốc Hội phê chuẩn, trên cơ sở đó Bộ GD & ĐT đã công bố dự thảo chương trình phổ thông tổng thể để lấy ý kiến toàn dân và các nhà khoa học. Điểm cơ bản của chương trình tổng thể là hướng tới giúp học sinh hình thành và phát triển 6 phẩm chất: yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm. Các năng lực được đặt ra cho người học ở chương trình mới gồm: tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Như Bác Hồ lúc sinh thời đã dạy:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Câu nói đó vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay và đúng cho mai sau. Người Việt nam thì phải tìm hiểu lịch sử của dân tộc mình. Học lịch sử có thể học từ nhiều nguồn tư liệu như: như SGK, nhân chứng lịch sử, di tích lịch sử, các phương tiện truyền thông đại chúng…
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Thăm quan, tìm hiểu các di tích lịch sử tại địa phương để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc trung học phổ thông

Cẩn: Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân thứ 3 (Hoàng Giáp), khoa Cảnh thìn Diên Thành thứ 3 (1580) lúc 44 tuổi. Nguyễn Nhân Thiệm: Hội nguyên khoa Quý Mùi Quang Hưng thứ 6 (1583) triều Lê Thế Tôn, lúc 49 tuổi. Nguyễn Thứ: Đình nguyên Hoàng giáp, khoa Mậu Tuất Quang Hưng thứ 21 (1598) triều Lê Thế Tôn, lúc 27 tuổi. Nguyễn Lại: Đình nguyên Hoàng giáp, khoa Kỷ Mùi Hoằng Định thứ 20 (1619), triều Lê Kính Tông, lúc 39 tuổi. Nguyễn Ngọc Huyền: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Sửu Bảo Thái thứ 2 (1721) triều Lê Dụ Tôn, lúc 37 tuổi. Lê Huy Du: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Đinh Mùi Chiêu Thống nguyên niên (1787) triều Lê Mẫn Đế, lúc 31 tuổi. Nguyễn Tôn Thố: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân thứ 5, khoa Ất Mùi Minh Mệnh thứ 16 (1835), lúc 43 tuổi. Nguyễn Bá Nhạ: Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân thứ nhất (Hoàng Giáp) và là người đỗ thứ 2 khoa thi Quý Mão Thiệu Trị 3 (1843) lúc 22 tuổi. Từ chỗ là chốn thờ cúng Thành hoàng, đình làng đã trở thành nơi tôn vinh học vấn. Vì thế, ngày nay, khi nhắc đến địa danh này, người ta không quên gắn với những danh hiệu cao quý như: “làng hiếu học”, “làng tiến sĩ”, “làng khoa bảng”... Không phụ lòng các thế hệ tiền nhân, con cháu hậu sinh ở Hoằng Lộc vẫn tiếp bước làm rạng danh mảnh đất này. 2.3.2.3. Thăm quan Nhà thờ Nguyễn Quỳnh, xã Hoằng Lộc Huyện Hoằng Hóa Nhà thờ Nguyễn Quỳnh (1677-1748) nay thuộc thôn Hưng Tiến, xã Hoằng Lộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho, thuở nhỏ, ông học với ông nội và cha (vốn là giám sinh ở Quốc Tử Giám). Năm 1696, Quỳnh thi đỗ Giải nguyên, nhưng đi thi Hội nhiều lần bị hỏng. Là một danh sĩ thời Lê – Trịnh (vua Lê Hiển Tông), từng thi đỗ Hương Cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Vốn không có chí làm quan, nhưng với tài năng thơ phú và ứng đối xuất chúng, lại sẵn lòng bênh vực người nghèo, ghét cay ghét đắng bọn tham quan, ô lại, ông được dân gian yêu mến phong là Trạng Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại trong dân gian dù ông không đỗ Trạng Nguyên. Tuy không đỗ cao, Quỳnh vẫn nổi tiếng là người học hành xuất sắc. Năm 1992 đền thờ Trạng Quỳnh được công nhận là di tích văn hoá lịch sử cấp quốc gia 2.3.2.4. Thăm quan Nhà thờ Lương Đắc Bằng, xã Hoằng Phong Huyện Hoằng Hóa. Lương Đắc Bằng (1472-1522) người làng Hội Triều nay thuộc xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa, cha mẹ đặt tên là Lương Ngạn Ích, ngay từ nhỏ Ngạn Ích học chữ rất giỏi, nổi tiếng thần đồng. Năm 1484 cha ông mất lúc ông mới 12 tuổi. Theo lời dặn lại của cha, ông tìm đến người học trò ưu tú của cha ông là Lương Thế Vinh để theo học. Không phụ lòng tin tưởng của thầy, Trạng Lường Lương Thế Vinh dạy dỗ sớm khuya, ân cần chỉ bảo, ông tiến bộ rất nhanh. Năm 28 tuổi ông thi đỗ Bảng nhãn khoa Kỷ Mùi (1499) đời vua Lê Hiến Tông năm Cảnh Thống thứ 2. Sau khi đậu, ông được nhận chức Tả Thị Lang Bộ Lại, Đông Các Đại học sĩ. Khi đường công danh phát đạt đỉnh cao là lúc ông được triều đình phong chức Thượng thư Bộ lại, tước Đôn Trung Bá. Trong thời gian làm quan, Lương Đắc Bằng là một người liêm khiết đem hết khả năng tài trí phục vụ triều đình và dân chúng. Ông được xếp vào hàng ưu tú vì tài văn phú nên từ tên là Lương Ngạn Ích ông được vua ban cho tên mới là Lương Đắc Bằng. Ông tham gia làm quan trải bốn triều vua thời hậu Lê đó là Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục và Tương Dực.Trong thời gian tham gia triều chính (khi làm Thượng Thư), ông có dâng lên vua một kế sách trị nước gồm 14 điều mà sử sách xưa thường gọi là Trị bình thập tứ sách. Vốn là một vị đại thần thanh liêm, thẳng thắn lại rất mực trung thành nên những Nho sĩ có tiếng thời ấy như Lê Tung, Lê Nại, Nguyễn Trực đều rất nể trọng ông. Sau khi Vua Hiến Tông ở ngôi 8 năm rồi mất, Túc Tông lên ngôi lại băng hà sau đó chưa đầy một năm. Uy Mục lên ngôi vào năm 1505. Vua hiếu sắc, hoang dâm lại nghiện rượu, tàn hại người tông thất, vì oán hận người không ủng hộ việc nối ngôi của mình làm trăm họ đều căm ghét. Tất cả những người tông thất đều bị xua đuổi về Thanh Hoa đã cùng cử Lương Đắc Bằng viết hịch dụ đại thần và các quan. Bài hịch do ông viết với lời lẽ sắc bén đã vạch trần đời sống trụy lạc, xa hoa của một vương triều. Với một thể chế không gì có thể cứu vãn nổi vì những lời nói phải không lọt tai vua. Dù đã tâu lên nhà vua nhiều lần những điều tâm huyết vì sự vững mạnh của nước nhà nhưng những kế sách trị bình của ông không được thi hành nên năm 1517 đời vua Chiêu Tông ông đã từ quan xin về quê để chăm lo dạy học. Cuộc đời của ông từ người làm quan lại chuyển sang làm thầy. Ông đã đem hết tài năng, chí hướng truyền thụ cho học trò, đặc biệt là những điều tâm huyết ở đời ông chưa thực hiện được và ông đã truyền lửa cho những học trò ưu tú sau này họ đã nối chí hướng của ông mà đi thi đỗ đạt cao đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm quê Hải Dương thi đỗ trạng nguyên, Đinh Bạt Tụy ở Nghệ An thi đỗ tiến sĩ, Nguyễn Mẫu Đối đỗ Bảng nhãn, Nguyễn Thừa Hưu đỗ tiến sĩ, Lại Kim Bảng đỗ Hoàng Giáp Trong số học trò ưu tú đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), người tỉnh Hải Dương đỗ trạng nguyên, làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư nhà Mạc, tước Trình Quốc Công, người đời thường gọi là Trạng Trình, ông có truyền lại cuốn "sấm Trạng Trình" tiên đoán việc đời sau. Cuộc đời làm quan của mình, Lương Đắc Bằng luôn giữ mình trong sạch, ông chỉ có năm gian nhà gỗ lợp kè vừa làm buồng ở, vừa thờ gia tiên vừa làm nơi tiếp khách. Bản thân ông vất vả hiếm muộn đường con cái, khi người thiếp có mang ba tháng thì ông đã ngã bệnh rồi qua đời. Trước lúc lâm chung ông đã dặn lại người vợ sau này sinh con trai, hãy đặt tên con là Lương Hữu Khánh và đem con đến gửi Trình Tiên sinh là học trò cũ của ông dạy dỗ, có vậy mới mong nối được chí của ta. Sau khi ông qua đời, học trò về chịu tang rất đông. Riêng trò Nguyễn Bỉnh Khiêm về làng Hội Triều dựng nhà ở chịu tang thầy ba năm mới về. Sau khi ông mất được 6 tháng, người thiếp sinh ra con trai theo lời ông bà đặt tên con là Lương Hữu Khánh. Lương Hữu Khánh đã tìm đến thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học như lời cha dặn và sau này ông đã thi đỗ Tiến sĩ thời Lê Trịnh được thăng đến Lại Bộ Thượng Thư. Trong lịch sử nước nhà Bảng nhãn Lương Đắc Bằng không chỉ được biết đến là một người quan thanh liêm, chính trực mà còn được tri ân là người thầy mẫu mực của nhiều thế hệ. Lăng mộ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng được xây cất lại làng Hội Triều nay thuộc xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa. Năm 1994 khu lăng mộ và nhà thờ của ông đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Năm 1996 được sự đồng ý của các cấp chính quyền trường THPT Hoằng Hóa 1 đổi tên thành trường THPT Lương Đắc Bằng. 2.3.2.5. Thăm quan Đền thờ các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và các anh hùng liệt sỹ Thanh Hóa, Thành phố Thanh Hóa. Trên núi Cánh Tiên, trước đây đặt trận địa pháo binh để bảo vệ cầu Hàm Rồng. Ngày nay, trên sườn núi khắc nổi hai chữ Quyết Thắng như một lời khẳng định về truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của quân dân xứ Thanh. Đền thờ Bà mẹ Việt Nam anh hùng và các anh hùng liệt sĩ tỉnh Thanh Hóa tọa lạc trên núi Cánh Tiên. Ngôi đền không chỉ nổi bật bởi quy mô đồ sộ và sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc truyền thống và hiện đại mà còn là công trình mang ý nghĩa tri ân sâu sắc của người dân Thanh Hóa đối với những người mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho sự bình yên của quê hương hôm nay. Với tổng diện tích quy hoạch 15ha, với kinh phí xây dựng 150 tỉ đồng bao gồm các hạng mục kiến trúc tiêu biểu như: cổng tam quan, cổng tứ trụ, hồ bán nguyệt, đền thờ chính, tháp chuông, bia tưởng niệm Xung quanh đền được bao bọc bởi hệ thống tường rào bằng đá, các trụ hình búp sen cùng hệ thống các bậc cầu lên xuống. Bên trong đền, nơi đặt điện tưởng niệm được trang trí hoa văn tinh xảo, sơn son thếp vàng. Phía sau đền nổi bật với tháp chuông 9 tầng mang vẻ đẹp linh thiêng, huyền ảo. Đền thờ các Bà mẹ Việt Nam anh hùng được khởi công xây dựng năm vào tháng 4/2010 và khánh thành năm 2012. 2.3.2.6. Thăm quan tượng đài Lão dân quân anh hùng, xã Hoằng Trường Huyện Hoằng Hóa. Tượng đài Lão quân Hoằng Trường Anh hùng được xây dựng theo nguyện vọng của bà con ngư dân xã Hoằng Trường nhằm tưởng nhớ chiến công của các lão dân quân của quê hương đã bắn rơi 2 chiếc may bay của giặc Mỹ chỉ bằng 3 khẩu súng cao xạ 12 ly 7 và một số súng K44 với 92 viên đạn súng bộ binh. Đây là nơi tưởng niệm và ghi dấu ấn trên Miền Bắc vào ngày 14/10/1967 quân và dân ta đã bắn rơi chiếc máy bay phản lực thứ 2.400 của giặc Mỹ. Nguyện vọng của nhân dân đã được UBND tỉnh Thanh Hóa đồng ý và sau hơn 1 năm khởi công xây dựng, tượng đài Lão quân Hoằng Trường Anh hùng đến nay đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Tượng đài làm bằng chất liệu đá Thanh Hóa cao 17,1m, nặng 170 tấn, được đặt trên khối bê tông cốt thép ép cọc chịu lực trong khuôn viên rộng hơn 12.000m2, nhìn xa như tựa vào hàm Ông cố của dãy núi Linh Trường đã được nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ sáng tác vào năm 1969. Mẫu tượng này đã được Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tặng giải thưởng nhà nước. Hình tượng chính của tượng đài là một Lão ngư đại diện cho tập thể Anh hùng chắc khỏe với dáng đứng hiên ngang, kiêu hãnh, tự tin và thách thức trước quân thù. Hình tượng Lão quân quần sắn quá đầu gối, bộ ngực phanh trần vạm vỡ, hai bàn chân bám chắc vào đất quê hương, một tay cầm mũ rơm một tay dơ cao ống ngắm 12ly7, cặp mắt nhìn xa xăm như muốn đưa máy bay địch vào huyệt chết. Lão ngư đại diện cho lòng yêu nước, quyết chiến đấu với kẻ thù, mặc dù tuổi đã cao. Tượng đài Lão quân Anh hùng Hoằng Trường không chỉ là nơi tưởng nhớ truyền thống yêu nước đánh giặc của quân và nhân dân Hoằng Hóa, Thanh Hóa nói riêng mà còn lưu nhớ truyền thống đánh giặc giữ nước của quân và dân ta. Các Lão quân Hoằng Trường đã lập chiến công xuất sắc. Chiến công của các Lão quân Hoằng Trường đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thưởng huân chương chiến công hạng Ba và gửi thư khen các cụ “Tuổi cao trí càng cao” nêu gương cho đồng bào cả nước. Đặc biệt, ngày 25/8/1970, trung đội Lão dân quân Hoằng Trường đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Các di tích lịch sử trên không còn mới lạ với các em bởi vì các em cũng đã đến nhiều lần. Nhưng lần đến này mang một ý nghĩa khác đó là được trải nghiệm để học tập truyền thống quý báu của cha ông, được rèn luyện kỹ năng thăm quan các di tích từ đó tạo tiền đề để hình thành kỹ năng sống. Khi được thuyết minh về lịch sử hình thành các di tích, học sinh được làm hướng dẫn viên du lịch tìm hiểu và nói được các nét chính, các em còn lại chăm chú lắng nghe. Khi thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng; lịch sử bảng môn đình; tượng đài lão dân quân anh hùng Hoằng Trường các em rất cảm phục, rất trân trọng và cảm thấy rất thiêng liêng, tự hào về con người Hoằng Hóa xưa và nay. Hoạt động trải nghiệm thăm quan, tìm hiểu các di tích lịch sử tại các địa phương trong huyện đạt được kết quả sau: - Học hỏi được phẩm chất quý báu của các bậc tiền nhân đó là chăm chỉ trong học tập, cần cù trong lao động, thanh liêm, chính trực, yêu nước thương dân. - Khơi dậy lòng yêu quê hương, tự hào về quê hương và tạo hứng thú để học môn lịch sử. - Tạo ra sự đoàn kết, thân thiện trong lớp, tạo được môi trường học tập lành mạnh, có ý thức, có kỹ luật và không ngừng vươn lên trong học tập và rèn luyện. PHẦN 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Hoằng Hóa là một trong những huyện có nhiều di tích lịch sử gắn liền với chiều dài lịch sử nước nhà. Tìm hiểu các di tích lịch sử chính là tìm hiểu truyền thống của quê hương. Tổ chức cho học sinh tìm hiểu di tích lịch sử là một trong những hoạt động trải nghiệm bổ ích, khơi dậy lòng yêu quê hương, tự hào về quê hương - nơi gắn liền với tuổi thơ. Tìm hiểu về Bảng nhãn Lương Đắc Bằng để học tập phẩm chất thanh cao, tài trí, đức độ của Ông - khi làm quan Ông là người tài năng, trung nghĩa, thanh liêm, hết lòng vì nước vì dân; khi về quê dạy học Ông là người thầy mẫu mực, hết lòng vì học trò. Bảng Môn Đình là biểu tượng cho truyền thống hiếu học của con em Hoằng Hóa nói chung và xã Hoằng Lộc nói riêng. Thăm di tích Bảng Môn Đình chính là tìm hiểu về việc học hành thi cử của các bậc tiền bối, đồng thời qua đó cũng muốn nhắc nhở thế hệ trẻ chăm chỉ, siêng năng trong học tập cũng như trong lao động để nối tiếp truyền thống của các bậc tiền nhân. Tượng đài các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và các anh hùng liệt sỹ Thanh Hóa; Cồn Mã Nhón; tượng đài Lão dân quân anh hùng Hoằng Trường nhằm mục địch xây dựng lòng yêu nước và truyền thống đánh giặc giữ nước của quân và dân Thanh Hóa nói chung, Hoằng Hóa nói riêng. Rồi nay mai tung cánh muôn phương, có cơ hội các em sẽ giới thiệu cho bạn bè về quê hương của mình và so sánh quê hương mình với quê hương của bạn, em sẽ tìm được điểm nổi bật của quê mình mà quê bạn không có, đó là truyền thống “Hiếu học” và “đánh giặc giữ nước”có từ lâu đời. Như vậy hoạt động trải nghiệm tìm hiểu các di tích lịch sử ở địa phương là một hoạt động thiết thực, có ý nghĩa, có tính nhân văn sâu sắc. Đây là hoạt động trải nghiệm ngắn liền giữa xưa và nay; giữa sách vở và thực tiễn, từ đó hình thành một hệ tư tưởng cho thế hệ hôm nay. Từ hệ tư tưởng đúng đắn sẽ hình thành kỹ năng sống lành mạnh. 3.2. Kiến nghị. Tổ chức thành tua thăm quan, tìm hiểu các di tích lịch sử, đó là một hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đây là một hoạt động trải nghiệm về cuội nguồn, phù hợp với lứa tuổi bậc THPT. Vì vậy, tôi mạnh dạn đề nghị bổ sung hoạt động tìm hiểu các di tích lịch sử tại địa phương vào hoạt động hướng nghiệp ngoài giờ lên lớp. XÁC NHẬN CỦA BGH Thanh hoá, ngày 4 tháng 6 năm 2017 TÔI CAM KẾT KHÔNG COPY DƯƠNG TRỌNG HÙNG TẠI LIỆU THAM KHẢO PGS-TS Hà Đình Đức, Trần Hồng Đức, Lê Đức Đạt Những nhà khoa bảng xứ Thanh - NXB Thanh Hóa năm 2011 Nguyễn Hữu Ngôn Hoằng Hóa đất học – NXB Thanh Hóa năm 2006. Nguyễn Huy Sanh (chủ biên), Nguyễn Đăng Mạnh Bảng nhãn Lương Đắc Bằng người thầy của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm-NXB HN năm 2013. Nguồn Internet. DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘ ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN Họ và tên tác giả: DƯƠNG TRỌNG HÙNG Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Lương Đắc BằngHuyện Hoằng Hóa TT Tên đề tài SKKN Cấp đánh giá xếp loại Kết quả đánh giá xếp loại Năm học đánh giá xếp loại 1. Lồng ghép giáo dục môi trường trong các bài giảng Sở GD&ĐT C 2003-2004 2. Sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử trong bài giảng “Định luật tuần hoàn Mendeleep”. Sở GD&ĐT B 2005-2006 3. Kết hợp các phương pháp giải toán để phát triển tư duy cho học sinh, thông qua các bài tập phần đại cương hóa hữu cơ và hidro cacbon Sở GD&ĐT C 2013-2014 4. Phát triển con đường tư duy cho học sinh trên cơ sở lập sơ đồ tóm tắt bài toán, sử dụng kết hợp các phương pháp giải và áp dụng trong các bài tập sắt và hợp chất sắt. Sở GD&ĐT B 2014-2015 5. Phát triển con đường tư duy cho học sinh trên cơ sở lập sơ đồ tóm tắt bài toán, sử dụng kết hợp các phương pháp giải và áp dụng trong các bài tập sắt và hợp chất sắt. HĐKHSK Tỉnh B
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_tham_quan_tim_hieu_cac_di_tich_lich_su.doc