Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Lịch sử ở trường trung học cơ sở
Trong điều kiện phát triển ngày nay hệ thống giáo dục ở các trường trung học cơ sở, môn Lịch sử có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ có những hiểu biết về kiến thức lịch sử của nước nhà, về văn hóa, tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức và phong cách sống. Môn Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò to lớn trong việc tác động đến con người không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm, giúp các em thấy được quá trình phát triển của một đất nước, một dân tộc mà rộng hơn là cả xã hội loài người.
Trong thực tế hiện nay việc dạy – học môn Lịch sử chưa hoàn thành tốt vai trò của mình. Ở nhiều nơi, giáo viên chủ yếu vẫn dạy học bằng phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chỉ chú trọng đến việc truyền đạt hết những nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, còn học sinh cố gắng chép đầy đủ những nội dung mà thầy cô đọc cho chép là đủ không cần mở rộng thêm nữa.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Lịch sử ở trường trung học cơ sở

hấp dẫn học sinh dễ khắc sâu kiến thức trọng tâm của bài có hứng thú học tập bộ môn. Có thể so sánh nếu như khi dạy 2 bài trên không sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin giáo viên vẫn có thể truyền đạt hết kiến thức cho học sinh nhưng để học sinh hình dung được bộ mặt thật, những khó khăn thách thức của châu Phi hiện nay là rất khó, bởi học sinh có thể chỉ biết được trên sách vở, lý thuyết. Hoặc qua các hình ảnh học sinh mới biết được con tàu cao tốc, những mạng lưới giao thông hiện đại của các nước phát triển, sự tiến bộ về thông tin liên lạc... so sánh những tiến bộ kỹ thuật trong từng thập kỷ. 2. Hình ảnh khắc sâu kiến thức Giáo viên đưa ra hình ảnh và hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh sau đó rút ra những vấn đề kiến thức của bài học, nhằm khắc sâu kiến thức trọng tâm. Vấn đề này không khó nhưng giáo viên lại không hay chú ý thường bỏ qua hoặc làm thay cho học sinh. * Dạy bài 24. Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945 – 1946). Phần III. Diệt giặc đói, giặc dốt và giải quyết khó khăn về tài chính. Giáo viên chụp bức ảnh Hình 42 (Sách giáo khoa). Nhân dân góp gạo chống “giặc đói” và trình chiếu trên màn hình lớn, hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét về phong trào cứu đói của nhân dân ta trong những ngày đầu sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Hình 42. Nhân dân góp gạo chống “giặc đói” Khi khai thác, giáo viên nên bổ sung kiến thức, cụ thể hoá kiến thức bằng lời giảng hình ảnh. Bằng những câu chuyện cụ thể để tạo ấn tượng, làm bài giảng thêm sinh động hấp dẫn: “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm”: Mỗi gia đình, mỗi bữa bớt khẩu phần ăn của cả nhà một nắm bỏ vào hũ, một tháng cả nhà nhịn ăn một bữa......Giáo viên kể chuyện về tấm gương “Nhịn ăn của Chủ Tịch nước” trong những ngày này để giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho các em. Tất cả mọi người, tất cả mọi nhà đều “lập hũ gạo cứu đói”, đều thực hiện “Ngày đồng tâm” khi hũ gạo nhà mình đầy, đem tới nơi quyên góp gạo chung của cả làng....(giáo viên vừa giảng vừa cho học sinh trực quan vào trung tâm bức ảnh) chỗ gạo quý hiếm chắt chiu ấy, sẽ được đưa tới nơi đói gay gắt hơn, để đồng bào có được miếng cơm, bát cháo cho qua đi những ngày khốn khó. Đấy chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”, hay “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Trong gian nan, khốn khó, càng sáng bừng lên nghĩa cử “Một nắm khi đói bằng một gói khi no”... Khi dạy về giải quyết nạn dốt. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh trên màn hình lớn và cùng trao đổi thảo luận. Hình 43. Lớp Bình dân học vụ Giáo viên giải thích để học sinh hiểu: “Bình dân học vụ” là gì? Là học tập, là nghĩa vụ của mọi người dân – có học – có kiến thức, mới xây dựng được chính quyền mới – xây dựng được cuộc sống mới... Một lớp bình dân học vụ ban đêm: Có trẻ, có già, có trai, có gái, đầy đủ mọi lứa tuổi, giáo viên có thể là những cô, cậu 9, 10 tuổi, học sinh có thể là những cụ già 60, 70 tuổi, đang say sưa học bài - lần đầu tiên nắn nót viết chữ, ánh sáng của những ngọn đèn dầu hôm nay, sẽ làm bừng sáng tương lai của dân tộc ở ngày mai... * Dạy bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950). Mục II: Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16. Giáo viên sử dụng hình“Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp” hướng dẫn học sinh khai thác nội dung kiến thức cơ bản, kèm theo câu hỏi gợi mở: Em biết gì về bức ảnh lịch sử này? Bức ảnh chụp ai? Theo em hiện nay bức ảnh gốc đang được trưng bày ở đâu? Quan sát bức ảnh trên em có nhận xét gì về tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược? Sau khi học sinh trao đổi, trả lời xong, giáo viên nhận xét và kết luận về nội dung bức hình: Bức hình cả lớp đang xem là ảnh chụp“Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp". Bức ảnh do bác sĩ quân y Trần Hạnh chụp ngày 20/12/1946. Người trong ảnh là chiến sĩ Nguyễn Văn Thiềng, còn gọi là Trần Thành, quê ở phố hàng Vôi (Hà Nội). Bức ảnh gốc hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng quân đội Việt Nam. Bức ảnh phản ánh một hiện thực lịch sử sinh động về các chiến sĩ trung đoàn Thủ đô quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Hành động quyết tử của chiến sĩ Trần Thành mãi mãi là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm cho các thế hệ thanh niên mai sau học tập”. Như vậy, việc trình chiếu bức tranh trên màn hình lớn để hướng dẫn học sinh quan sát, miêu tả kết hợp với câu hỏi gợi mở sẽ giúp học sinh phát huy tính tích cực, hứng thú trong học tập. Và nếu như không dạy ứng dụng công nghệ thông tin thì giáo viên cũng chỉ cần khai thác những nội dung trong sách giáo khoa là đủ thì học sinh dễ cảm thấy nhàm chán và giờ học không đạt được kết quả cao. Sau khi học sinh quan sát, suy nghĩ và trả lời, giáo viên kết luận sẽ hình thành trong đầu các em biểu tượng rõ nét, chân thực về hình ảnh về các chiến sĩ quyết tử quân Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Nhờ đó, các em sẽ khắc sâu, nhớ lâu kiến thức về sự kiện lịch sử này, không nhầm lẫn với các nhân vật và sự kiện lịch sử khác. 3. Sử dụng các đoạn phim tư liệu để minh họa cho nội dung bài học Có thể nói các đoạn phim tư liệu là nguồn tư liệu sống trong dạy học lịch sử bởi qua những đoạn phim này các em biết luôn được về thời kì quá khứ hào hùng của dân tộc. Tùy theo nội dung của bài giáo viên có thể đưa vào những đoạn phim tư liệu, những bài hát phù hợp làm phong phú thêm bài học, đồng thời thay đổi không khí trong một giờ học lịch sử. Có hai hình thức sử dụng đoạn phim tư liệu: * Xem phim tư liệu bổ sung kiến thức vừa học. Dạy bài 16. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài 1919 - 1925. Sau khi trình bày cho học sinh các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp, Liên Xô và sang Trung Quốc giáo viên cho học sinh xem đoạn video về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ khi Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước đến khi Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương của Lê-Nin và tìm được con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam.... Sau khi xem xong đoạn video này học sinh sẽ bổ xung và khắc sâu thêm kiến thức về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Dạy bài 27. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953 - 1954). Sau khi dạy hết bài giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát "Giải phóng Điện Biên", khí thế hào hùng của lời bài hát cùng những hình ảnh minh họa trong bài hát một lần nữa khắc sâu kiến thức bài học cho học sinh, gây tâm lí thoải mái, hứng thú trong giờ học, làm cho giờ học lịch sử bớt nhàm chán bởi những con số và sự kiện... * Xem phim tư liệu rút ra những nội dung cơ bản của bài học. Dạy bài 23. Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự thành lập Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Phần III. Giành chính quyền trong cả nước. Dạy tới phần nội dung của Tuyên ngôn độc lập, giáo viên dừng lại cho học sinh xem đoạn video đọc Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi học sinh xem xong giáo viên có thể hỏi: Nội dung bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam phản ánh những vấn đề gì? Vì học sinh vừa được xem xong nên các em có thể rút ra được ngay nội dung cơ bản của bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, nó là sự kế thừa và tiếp nối những mặt tích cực của bản tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp, bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ để Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên một bản Tuyên ngôn hào hùng cho dân tộc Việt Nam, khẳng định với thế giới quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam.... Hơn nữa các em được nghe thực tế giọng của Bác Hồ đọc tuyên ngôn, các em sẽ phấn khởi hơn hứng thú hơn khi học những phần sau và dễ khắc sâu kiến thức của bài. Dạy bài 25. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950). Phần I - Mục 2: Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng. Khi dạy tới đoạn Chủ Tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến nếu như trước đây dạy bình thường giáo viên chỉ khai thác nội dung này qua đoạn kênh chữ trong sách giáo khoa học sinh chỉ biết tới lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến qua giọng đọc trầm bổng của giáo viên, nhưng có ứng dụng công nghệ thông tin giáo viên cho học sinh xem Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến bằng chính nét chữ của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và lời đọc của Người, học sinh được mắt thấy tai nghe, các em sẽ hứng thú nhiều khi học tập và cô đọng lại kiến thức của bài giảng trong học sinh. 4. Xây dựng và kết hợp sử dụng tranh, ảnh, đoạn phim để minh họa cho nội dung bài học - Chèn các bức ảnh vào bài học. - Chèn đoạn phim tài liệu để minh hoạ. 5. Xây dựng và sử dụng lược đồ để khai thác nội dung bài học Ưu thế của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử là bằng các hiệu ứng giáo viên có thể làm cho học sinh thấy được sự sinh động trong diễn biến các trận đánh và thấy được sự quyết liệt trong mỗi sự kiện... Một bản đồ động sẽ hứng thú hơn nhiều so với bản đồ tĩnh, tuy nhiên việc thiết kế một bản đồ điện tử là một vấn đề rất khó làm đối với giáo viên. Phương pháp này có thể áp dụng cho rất nhiều bài trong chương trình của bộ môn Lịch sử đặc biệt là các bài có diễn biến của phong trào cách mạng, các trận đánh lớn. 6. Sử dụng hệ thống bảng biểu điện tử để khai thác nội dung bài học Sử dụng bảng niên biểu, bảng so sánh, giúp các em khái quát nội dung sau mỗi phần, mỗi bài, mỗi giai đoạn lịch sử....Hình thức này phù hợp với phương pháp thảo luận nhóm, so sánh sự khác nhau....giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu sau đó trình bày và giáo viên đưa ra kết luận cuối cùng qua các bảng biểu III. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Trong năm học 2017 – 2018 tôi đã áp dụng nhiều biện pháp trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử cấp trung học cơ sở đặc biệt là các khối lớp 6, 7, 8, 9 nhờ vào đó mà kết quả đạt được tương đối cao. Lớp Sỉ số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Lịch sử góp phần tạo ra tính trực quan, sinh động giúp các em dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu kiến thức, xoá bỏ cảm giác khô khan trong các giờ học lịch sử để môn học này trở nên gần gũi với các em hơn. Qua kết quả thực tế cho thấy đa số các em học sinh đều tỏ ra hứng thú với phương pháp này, tạo ra sự tập trung chú ý cao độ, từ đó giúp các em khắc sâu biểu tượng về sự kiện hiện tượng lịch sử, từ đó các em có thể thuộc bài ngay tại lớp. IV. Khả năng ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm Qua thực tế cho thấy sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng được nhiều bài dạy khác nhau và đem lại hiệu quả cao như tạo ra được tính tích cực, chủ động, tính trực quan, sinh động giúp học sinh có thể dễ dàng nắm được nội dung kiến thức, hiểu sâu kiến thức bộ môn Lịch sử, hạn chế được tính khô khan trong giờ dạy học lịch sử để môn học này có thể gần gũi với các em hơn. Trong thực tế giảng dạy bộ môn Lịch sử ở Trường THCS Tân Thớikhi tôi áp dụng các biện pháp giảng dạy có ứng dụng công nghệ thông tin cho thấy đa số các em học sinh đều tỏ ra hứng thú với phương pháp này, các em tập trung chú ý học nhiều hơn, từ đó giúp các em khắc sâu được trọng tâm của bài và có thể thuộc bài ngay tại lớp. Đối với những em khá giỏi thì có thể nắm vững, vận dụng tốt kiến thức kỹ năng, học bài và làm bài rất tốt, học sinh trung bình thì có thể nắm được nội dung kiến thức cơ bản còn một số em chưa tập trung học thì làm bài chưa tốt, kết quả chưa cao. Từ thực tế học tập của học sinh trước và sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này cho thấy hiệu quả của giờ học có áp dụng phương pháp này thì sẽ cao hơn hẳn và có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với các phương pháp truyền thống mà trước đây nhiều giáo viên giảng dạy môn Lịch sử vẫn sử dụng trong giờ dạy của mình. C. KẾT LUẬN I. Kết luận Ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy đã góp phần tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nó mang đến cho học sinh những hình ảnh trực quan rất sinh động, những liên hệ thực tế lí thú, giúp học sinh hứng thú học tập. Công nghệ thông tin được xem như một công cụ dạy học hiện đại, công cụ này rất hiệu lực, nhưng vẫn không phủ nhận vai trò của người thầy, nếu ta ứng dụng hợp lí, có sự kết hợp tốt với phương pháp dạy học truyền thống sẽ mang lại hiệu quả cao. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử đã thể hiện mối quan hệ biện chứng về con đường nhận thức của học sinh đi từ “trực quan sinh động” đến“tư duy trừu tượng”. Ở đây, nhờ được quan sát những hình ảnh sinh động, được nghe giảng của giáo viên mà học sinh tiếp thu bài tốt hơn, khắc sâu kiến thức bài học tốt hơn. Về điểm này, nhiều nhà giáo dục lịch sử đã nhấn mạnh:“Nội dung của các hình ảnh lịch sử, của bức tranh quá khứ càng phong phú bao nhiêu thì hệ thống khái niệm mà học sinh thu nhận được càng vững chắc bấy nhiêu”. Đồng thời, việc sử dụng những loại đồ dùng trực quan có liên quan đến phương tiện kĩ thuật hiện đại không chỉ góp phần tạo biểu tượng lịch sử cụ thể cho học sinh, miêu tả bề ngoài sự kiện, mà còn đi sâu vào bản chất sự kiện lịch sử. Thực hiện theo chủ trương đổi mới phương pháp dạy học nên việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một yêu cầu cấp thiết trong công tác dạy học. Trước đây ta thường quan niệm thiết bị dạy học môn Lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở nên phong phú, sinh động. Ngày nay ngoài chức năng, tác dụng đó, người ta còn đặc biệt nhấn mạnh đó là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc truyền bá và nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn giảng. Học sinh có điều kiện chủ động tích cực trong học tập tham gia vào quá trình tự nhận thức lịch sử một cách tốt nhất và có hứng thú học tập tốt hơn ở bộ môn Lịch sử. II. Kiến nghị - Phòng giáo dục cần thường xuyên tổ chức các chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp về việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học. - Ban giám hiệu nhà trường cần phối hợp với lãnh đạo cấp trên tạo điều kiện trang bị đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy theo phương pháp đổi mới như sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, đồng thời phải bổ xung đầy đủ trang thiết bị dạy học đặc biệt là máy chiếu, phòng học bộ môn để ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học một cách thường xuyên và phục vụ cho công tác dạy học bộ môn Lịch sử ngày càng tốt hơn - Đối với giáo viên cần phải có tâm huyết với nghề, đầu tư nghiên cứu bộ môn mình giảng dạy, thường xuyên trau dồi kiến thức, đề ra nhiều phương pháp mới phù hợp đặc thù với bộ môn, luôn luôn cập nhật thông tin hàng ngày để cung cấp kiến thức thực tế phù hợp. Trên đây tôi xin mạnh dạn nêu lên một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử theo hướng đổi mới phương pháp dạy học mà bản thân tôi rút ra được trong những năm qua rất mong sự trao đổi, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để tìm ra nhiều biện pháp tốt hơn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Lịch sử ở trường trung học cơ sở. Trường THCS Tân Thới
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_day.doc