Sáng kiến kinh nghiệm Vài kinh nghiệm về tổ chức hoạt động học trong bộ môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Bác Hồ đã nói:

“Dân ta phải biết sử ta.

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"

Lịch sử là môn học mang tính nhân văn và phát triển con người. Nó không chỉ hướng con người biết về những mối quan hệ hiện tại, kết nối hiện tại với quá khứ, mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển trong tương lai. Môn học này không thể thiếu trong chương trình giảng dạy ở hầu hết các nước trên thế giới.

Với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đã và đang đưa đến rất nhiều cơ hội và những thách thức lớn cho các quốc gia dân tộc, một trong những cơ hội lớn nhất đó chính là các nước đang phát triển có thể khai thác các nguồn vốn đầu tư, kĩ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lí từ bên ngoài, nhất là các tiến bộ về khoa học – kĩ thuật để có thể “đi tắt đón đầu” [3], rút ngắn thời gian xây dựng và phát triển đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ thuận lợi, các quốc gia cũng gặp không ít những khó khăn thách thức, một trong những khó khăn thách thức đó chính là nguy cơ bị tụt hậu. Việt Nam cũng không tránh khỏi những nguy cơ thách thức đó. Vì vậy, tận dụng thời cơ và vượt qua những khó khăn thách thức chính là vấn đề không chỉ của riêng một nghành hay riêng một người, mà là sự chung tay nỗ lực của cả dân tộc Việt Nam, trong đó lĩnh vực giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng.

docx 21 trang SKKN Lịch Sử 09/10/2025 90
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vài kinh nghiệm về tổ chức hoạt động học trong bộ môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vài kinh nghiệm về tổ chức hoạt động học trong bộ môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Vài kinh nghiệm về tổ chức hoạt động học trong bộ môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh
họa được cắt từ bài giảng
+ Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: học sinh theo dõi SGK, suy nghĩ trả lời
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung kết hợp bảng biểu để chốt ý.
- Hoạt động nhóm: 
Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, (hoặc có thể 6 nhóm nhỏ để dễ thảo luận và đảm bảo học sinh nào cũng được tham gia thảo luận) với các nhiệm vụ cụ thể.
Hình ảnh minh họa được cắt từ bài giảng
+ Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: học sinh theo dõi SGK, thảo luận và trả lời.
Báo cáo sản phẩm: Các nhóm dán sản phẩm lên bảng, đại diện từng nhóm trình bày, giáo viên nhận xét, chốt ý.
Lưu ý khi giáo viên sử dụng phương pháp hoạt động nhóm:
+ Tránh nêu nhiệm vụ thảo luận không rõ ràng hoặc quá đơn giản như kiểu trình bày nội dung, diễn biến, nêu khái niệm...dẫn đến học sinh hoạt động nhóm nhưng không có sự thảo luận.
+ Phân việc rõ ràng, cử được nhóm trưởng và thư kí làm việc.
+ Tạo điều kiện để các nhóm tự đánh giá lẫn nhau hoặc cả lớp cùng đánh giá.
+ Tùy theo nhiệm vụ học tập, Hs có thể sử dụng hình thức làm việc cá nhân hoặc hoạt động nhóm cho phù hợp, không nên thực hiện phương pháp này này một cách hình thức. Không nên lạm dụng hoạt động nhóm và cần đề phòng xu hướng hình thức (tránh lối suy nghĩ: đổi mới phương pháp dạy học là phải sử dụng hoạt động nhóm).
+ Trong suốt quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần đi đến các nhóm, quan sát, lắng nhe, gợi ý, giúp đỡ hs khi cần thiết.
Thứ ba, hoạt động luyện tập
Với mục đích nhằm củng cố và khắc sâu và nâng cao kiến thức đã học trong bài, đồng thời giúp học sinh biến những kiến thức thành kĩ năng, đặc biệt đối với bộ môn lịch sử thì hoạt động luyện tập đóng vai trò quan trọng, vì qua đó học sinh được tiếp cận, được thực hành qua các dạng bài tập khác nhau nhằm “củng cố và ghi nhớ được kiến thức mà không phải bằng học thuộc hay ghi chép máy móc” [1].
Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao ở hoạt động này thì giáo viên cần chú ý những điểm sau:
- Luyện tập phải nhằm mục đích và yêu cầu nhất định, không dàn trải hoặc tránh chỉ tập trung vào một nội dung. Xác định rõ nội dung trọng tâm bài học mà học sinh cần khắc sâu, ghi nhớ để thiết kế phương pháp và kỹ thuật phù hợp.
- Luyện tập phải đảm bảo mức độ vừa sức đối với học sinh, không quá dễ, cũng ko nên quá khó gây hiệu ứng ngược. Ví dụ không nên có những câu trắc nghiệm hỏi một cách quá đơn giản, ví dụ như: “Ngày 5-6-1911 có ý nghĩa gì” trong nội dung Nguyễn Ái Quốc từ 1919-1925, hoặc “đây là ai” với phương pháp nhận diện chân dung lịch sử bằng hình ảnh của Nguyễn Ái Quốc.
- Thời gian luyện tập không nên kéo dài và lặp đi lặp lại một hoạt động dễ gây nhạt nhẽo và nhàm chán. Nên tổ chức các hoạt động luyện tập, thực hành thông qua ít nhất 2 hoạt động (cũng không nên nhiều quá 3 hoạt động) nhằm gây hứng thú cho học sinh, đồng thời qua đó kĩ năng của các em cũng được rèn luyện.
Để cụ thể hơn, tôi xin giới thiệu một số phương pháp và kỹ thuật thực hiện hoạt động luyện tập qua một số ví dụ sau:
Ví dụ 1: Ở bài “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (LSTG lớp 11)
Do đặc thù của bài là ôn tập, nên thiết kế phương pháp và kỹ thuật sẽ khó hơn, đảm bảo không lặp với nội dung và cách thức đã tiến hành trong bài. Vì vậy, sau khi tìm tòi và nghiên cứu kĩ, tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
Bài tập 1: Nhận dạng chân dung lịch sử.
Giáo viên lựa chọn khoảng 3-4 chân dung nhân vật lịch sử (không nên quá nhiều) và nêu nhiệm vụ đối với học sinh. Sau khi nhận dạng, mỗi đội giới thiệu sự hiểu biết của mình về một trong 4 nhân vật trên. 
Học sinh nào hoàn thành tốt, sẽ có phần thưởng.
Hình ảnh minh họa được cắt từ bài giảng
Bài tập 2: Chọn câu trả lời đúng
Câu 1: Trong các cuộc cách mạng tư sản sau cuộc cách 
 mạng nào được xem là triệt để và sâu sắc nhất?
A. Cách mạng tư sản Nêdeclan.
B. Cách mạng tư sản Anh.
C. Cách mạng tư sản Pháp.
D. Cải cách Minh trị (Nhật bản).
Câu 2: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã xác định giai cấp nào nắm quyền lãnh đạo cách mạng?
A. Giai cấp công nhân
B. Giai cấp nông dân 
C. Giai cấp tư sản
D. Giai cấp địa chủ phong kiến
Câu 3: Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX chủ nghĩa tư bản phát triển: 
A. Không đều về kinh tế và chính trị 
B. Phát triển đồng đều 
C. Chậm phát triển về mọi mặt 
D. Chỉ phát triển về quân sự và thuộc địa 
Lưu ý, khi thiết kế bài tập dạng này trên bằng giáo án điện tử, giáo viên nên sử dụng hiệu ứng + âm thanh cho sinh động, hấp dẫn. Ví dụ khi trả lời trắc nghiệm, giáo viên nên sử dụng đồng hồ đếm ngược có âm thanh tính thời gian và có chuông báo hết giờ, như vậy sẽ tăng phần kịch tính.
Ví dụ 2: Ở bài “Phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ 1919 – 1925” (tiết 2) – (LSVN lớp 12)
Do đặc trưng kiểu bài là tiếp thu và hình thành kiến thức mới chứ không phải dạng bài ôn tập, nên tôi sử dụng 2 hoạt động sau đây:
Bài tập 1: Em hãy lựa chọn đáp án đúng vào các cột bên cho phù hợp với kiến thức: (giáo viên chuẩn bị sẵn vào giấy A-0, học sinh lên bảng dùng bút dạ tích trực tiếp vào)
TT
Các hoạt động
Giai cấp TS
Giai cấp TTS
Giai cấp CN
1
Chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa (1919)



2
Xuất bản nhiều báo tiến bộ: Chuông rè, An Nam trẻ, Người nhà quê...



3
Đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), và để tang Phan Châu Trinh (1926)



4
Thành lập Đảng Lập hiến (1923)



5
Thành lập Công hội ở Sài Gòn – Chợ Lớn (1920)



6
Thành lập các nhà xuất bản tiến bộ: Cường học thư xã, Nam đồng thư xã



7
Bãi công ở xưởng Ba Son (1925)



Bài tập 2: Tập thể và cá nhân
Đoạn video sau đây nói tới nội dung gì? 
Giáo viên chiếu đoạn phim tư liệu (khoảng 1 phút) về những hình ảnh trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919-1925 + nhạc bài hát “Dấu chân phía trước”. Mục đích vừa củng cố, khắc sâu kiến thức, vừa giáo dục tư tưởng, tình cảm của các em đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Nhạc nền bài hát sẽ gây xúc động mạnh cũng là cao trào kết thúc bài học.
Hình ảnh minh họa cắt từ bài giảng
Thứ tư, hoạt động vận dụng, tìm tòi sáng tạo
Nhằm “tạo cơ hội cho học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng, thực nghiệm giá trị đã được học vào trong cuộc sống”[1] ở thực tiễn gia đình, nhà trường và cộng đồng, đồng thời khuyến khích các em tiếp tục tìm hiểu để mở rộng kiến thức, từ đó giúp các em hiểu rằng không chỉ có kiến thức đã học trong SGK mà còn nhiều điều cần học hỏi, khám phá. 
Ví dụ, ở bài bài “Phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ 1919 – 1925” (tiết 2-LSVN lớp 12), tôi chia theo tổ, mỗi tổ sưu tầm những hình ảnh về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1925 (khuyến khích những hình ảnh hiếm, ngoài sách GK), Yêu cầu: Kẹp thành quyển theo thứ tự thời gian và có chú thích rõ ràng. Học sinh tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ tại nhà, sau đó báo cáo sản phầm bằng bài thu hoạch.
Hoặc với bài Ôn tập lịch sử thế giới cận đại lớp 11, tôi giao nhiệm vụ cho các em như sau: Từ những nội dung đã học, đặc biệt là cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về thông điệp của V. Hugo: “Hòa bình là đức hạnh của nhân loại, chiến tranh là tội ác”. Học sinh tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ tại nhà, sau đó báo cáo sản phầm bằng bài thu hoạch.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau thời gian nghiên cứu tìm tòi, áp dụng, tôi đã thu được những kết quả như sau:
Thứ nhất, đối với hai giờ dạy “Phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ 1919 – 1925” (tiết 2-LSVN lớp 12) và “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (LSTG lớp 11): Tôi thiết kế và thực hiện các phương pháp trong hoạt động dạy học theo hướng đổi mới, tuy còn những hạn chế nhất định nhưng khi thực hiện dạy tại các lớp 12 và 11 do tôi đảm nhiệm đã thu được những kết quả tích cực, thể hiện:
+ Lớp thực hiện dạy đổi mới và không đổi mới:

Lớp 12B1
Lớp 12B2
Lớp 12B5
Lớp 12B7
Dạy học truyền thống

x
x


Dạy học theo phương pháp mới


x
x

+ Đối với 2 lớp tôi dạy theo phương pháp truyền thống là 12B1 và 12B2, kết quả thu được từ bài kiểm tra nhận thức là: (thực hiện đối với 80 em ở 2 lớp)

Kết quả bài kiểm tra
Tính phần trăm
Điểm giỏi (9-10)
10 bài
12,5%
Điểm khá(7-8)
21 bài
26,25%
Điểm TB(từ 5 -6)
37 bài
46,25%
Điểm yếu(từ 3-4)
11 bài
13,75%
Điểm kém (từ 0-3)
1 bài
1,25%
+ Đối với 2 lớp tôi thực hiện dạy theo phương pháp mới là 12B5 và 12B7, kết quả thu được như sau: (thực hiện đối với 80 em ở 2 lớp)

Kết quả bài kiểm tra
Tính phần trăm
Điểm giỏi (9-10)
32 bài
40 %
Điểm khá(7-8)
35 bài
43,75%
Điểm TB(từ 5 -6)
12 bài
15 %
Điểm yếu(từ 3-4)
1 bài
1,25%
Điểm kém (từ 0-3)
không có


Nhìn vào kết quả so sánh từ 2 bảng trên ở các lớp ta thấy kêt quả khác hẳn nhau: Đối với các lớp không thực hiện đổi mới: số điểm giỏi chỉ 10 bài chiếm tỉ lệ 12,5%, chủ yếu là điểm TB là 37 bài chiếm tỉ lệ 46,25%. Điểm yếu còn nhiều, thậm chí có một điểm kém.
Đối với 2 lớp thực hiện đổi mới: số điểm giỏi lên tới 32 bài chiếm tỉ lệ 40%, số điểm khá là 35 bài chiếm tỉ lệ 43,75%, điểm, số điểm TB giảm hẳn, điểm yếu chỉ 1 bài, điểm kém không có.
Thứ hai, qua quan sát thực tế từ các giờ dạy áp dụng theo phương pháp mới, tôi nhận thấy thái độ và tinh thần học tập của các em khác hẳn so với thời gian chưa hoặc có áp dụng phương pháp mới nhưng chưa rõ ràng. Đó là các em hăng hái đón nhận và hào hứng tham gia mọi hoạt động học. Cách các em sôi nổi trao đổi, thảo luận, bàn bạc để cùng đưa ra hướng giải quyết hay đáp án cho nhiệm vụ tôi giao. Cách các em hợp tác cùng làm việc đối với các hoạt động ghép đôi, chia cặp. Và cả cách các em lặng yên khi cùng xem đoạn vi deo ngắn đầy xúc động về quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác Hồ. Tôi vẫn nhớ như in không khí lớp học trùng xuống, không một tiếng động, những đôi mắt hướng về màn hình cùng lắng nghe trong tiếng nhạc da diết của bài “dấu chân phía trước”. Kết thúc đoạn vi deo, nhiều tiếng nói từ phía các em vang lên: “xúc động quá cô ơi”!!!
Thứ ba, đối với riêng bản thân tôi khi thực hiện phương pháp đổi mới trong các hoạt động dạy học, tuy quá trình chuẩn bị một giờ dạy đòi hỏi công phu, nghiên cứu, tìm tòi nhưng khi lên lớp tôi không còn phải nói nhiều hay viết bảng nhiều. Với cách dạy mới, tôi chỉ đóng vai trò là cố vấn, là người hướng dẫn dẫn dắt các em làm việc. Tôi cũng không phải nhìn thấy những ánh mắt mệt mỏi, những trang vở ghi kín chữ của các em học sinh đối với bộ môn lịch sử nữa.
Thứ tư, hiệu ứng đặc biệt đem lại từ hoạt động vận dụng và tìm tòi, sáng tạo là các em tích cực tìm tòi và đầu tư vào bài thu hoạch do tôi giao nhiệm vụ, đặc biệt, các em cũng đã tìm tòi và khám phá nhiều kiến thức và hiểu biết về địa phương, về lịch sử quê hương đất nước.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận: 
Điều 8.2, Luật Giáo dục đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông cần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[4].
Horaceman cũng đã nói: “Một ông thầy mà không dạy cho trò được việc ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi”[3].
Và càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới không chỉ để phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước, của thế giới, mà đổi mới còn để đào tạo ra “thế hệ trẻ tương lai không chỉ giỏi về kiến thức mà còn giỏi về kĩ năng”[3]. Đặc biệt đối với bộ môn lịch sử, khi những quan niệm dường như đã ăn sâu vào suy nghĩ mọi người rằng học môn lịch sử là phải thuộc, phải nhớ, phải ghi phải chép, rằng môn lịch sử chẳng có gì hay ho ngoài những con số, những sự kiện khô khan...thì việc đổi mới phương pháp dạy học là cách tốt nhất để chấm dứt những quan niệm sai lầm về bộ môn lịch sử !
Có thể nói, phương pháp dạy học là một yếu tố quan trọng bậc nhất để mục tiêu, chất lượng, hiệu quả giáo dục phổ thông đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục, kỳ vọng của xã hội, đất nước trong bối cảnh hội nhập. “Tính cấp thiết việc đổi mới phương pháp dạy học”[3] được đặt ra và đang quyết tâm thực hiện. Tuy nhiên, đây không phải là câu chuyện đơn giản, giải quyết trong một sớm một chiều, cần có một lộ trình nhất định, đặc biệt là nỗ lực, ý chí,  từ nhiều phía, các cấp quản lý giáo dục, đội ngũ giáo viên đến đối tượng học sinh chúng ta.
Thay cho lời kết, xin trích dẫn câu nói của TS Vũ Ngọc Anh, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam chia sẻ quan điểm về đổi mới PPDH hiện nay: “Đổi mới PPDH trong trường phổ thông không phải là một mong muốn chủ quan, một phong trào quần chúng với sự tự nguyện hoặc không mà là một yêu cầu khách
 quan, cấp thiết, có cơ sở pháp lý, lý luận, thực tiễn đối với mọi trường học, mọi
 giáo viên” [3]. 
2. Kiến nghị:
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp giáo dục, tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Một là, việc đổi mới phải được xác định rõ ràng là nhiệm vụ của tất cả các cấp quản lý giáo dục, tất cả các thầy cô giáo và học sinh, nghĩa là phải đồng bộ chứ không phải của riêng một cá nhân hay một đơn vị, càng không phải là việc của riêng giáo viên vì “họ là người trực tiếp đứng lớp”.
Hai là, đổi mới là cần thiết, nhưng không vì thế mà quá nặng nề gây áp lực cho cả giáo viên và học sinh, dẫn đến hiệu ứng ngược, chỉ mang tính đối phó, thầy đạo diễn và trò là diễn viên hoặc chỉ thực hiện khi thao giảng hay trong các cuộc thi. 
Ba là, một trong những yếu tố quan trọng để thực hiện tốt một giờ dạy theo phương pháp đổi mới đó là việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng đồ dùng dạy học. Vì vậy, đề nghị các cấp quản lý liên quan nên tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và trang thiết bị cần thiết. Nếu những giờ dạy công phu, giáo viên tự bỏ tiền túi để mua và thiết kế đồ dùng dạy học thì nhà trường nên có chính sách khuyến khích hỗ trợ.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thọ Xuân, ngày 25 tháng 5 năm 2018
 Người viết sáng kiến
 Đặng Thị Thu Hằng

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tài liệu tập huấn: “Phương pháp và kỹ thuật tổ chức hoạt động học theo nhóm và hướng dẫn học sinh tự học”. Bộ GD và ĐT
2. Đổi mới phương pháp dạy học. NXB GD.
3. Nguồn internet. Như: 
- Báo giáo dục thời đại. Link: 
- Báo Dân trí. Link: 
- Báo giáo dục. Link: 
4. Luật Giáo dục.
5. SGK môn Lịch sử Lớp 11. SGK môn Lịch sử lớp 12. NXB GD
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đặng Thị Thu Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Lam Kinh
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá xếp loại
(Ngành GD cấp huyện/tỉnh; Tỉnh...)
Kết quả đánh giá xếp loại
(A, B, hoặc C)
Năm học đánh giá xếp loại

Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm trong việc góp phần giảm tình trạng bạo lực học đường ở trường THPT.
Sở GD&ĐT Thanh Hóa
C
2017

MỤC LỤC:
Tên đề mục
Trang
I. MỞ ĐẦU
1
 1.1. Lí do chọn đề tài
1
 1.2. Mục đích nghiên cứu
2
 1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. NỘI DUNG
3
 2.1. Cơ sở lí luận
3
 2.2. Thực trạng vấn đề
4
 2.3 Giải pháp
6
 2.4. Hiệu quả áp dụng vào thực tế
15
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
17
 3.1. Kết luận
17
 3.2. Kiến nghị
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC ĐỀ TÀI SKKN


File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_vai_kinh_nghiem_ve_to_chuc_hoat_dong_h.docx
  • docphu_luc_1_giao_an_minh_hoa_ls_lop_11.doc
  • docphu_luc_2_ga_minh_hoa_ls_lop_12.doc