Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng môn Lịch sử lớp 9

Đất nước ta đang thực hiện đường lối đổi mới và tiến hành công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa không chỉ đơn thuần là công cuộc xây dựng nền kinh tế đất nước đang trên quá trình hội nhập quốc tế mà còn là quá trình cách mạng làm biến đổi sâu sắc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, truyền thống đó đã tạo nên những nét đẹp của nền văn hóa Việt Nam, và được nhân lên trong thời đại mới với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945). Những thành tựu của nền giáo dục Việt Nam trong thế kỉ qua là hết sức to lớn, là cơ sở, là điều kiện để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Những yêu cầu mới của xã hội, của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sự thách thức nguy cơ tụt hậu trên đường tiến vào thế kỉ XXI bằng cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy và học.

doc 36 trang SKKN Lịch Sử 28/07/2025 30
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng môn Lịch sử lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng môn Lịch sử lớp 9

Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng môn Lịch sử lớp 9
 ra Hội nghị Toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân), đồng thời tường thuật về sự kiện đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy một đội quân giải phóng từ Tân Trào tiến vè giải phóng thị xã Thái Nguyên.
* Tích hợp môn Ngữ văn:
- Ở phần II - Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 (tôi lồng ghép hai phần II và III trong sách giáo khoa): khi tường thuật diễn biến của Tổng khởi nghĩa, giáo viên có thể tích hợp trích dẫn một số câu thơ trong các tác phầm "Huế tháng Tám" của Tố Hữu, "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi hay "Tổng khởi nghĩa" của Xuân Thủy.... cho thêm sinh động.
4. Sử dụng phương pháp đàm thoại
Phương pháp này không mới nhưng cái mới là hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp. Đây là phương pháp dùng lời nhưng dưới hình thức trao đổi qua lại giữa giáo viên và học sinh. Thường giáo viên là người chủ động đề ra các câu hỏi và yêu cầu học sinh trả lời. Với những câu hỏi theo cấp độ nhỏ, trong đó giáo viên hỏi với mục đích vừa kích thích học sinh suy nghĩ, vừa dẫn dắt, gợi ý để trò trả lời. Trong quá trình giải đáp, những chỗ nào học sinh còn thiếu sót, thì giáo viên mới bổ sung hoặc đặt ra câu hỏi gợi ý. Dưới đây là một số câu hỏi mà tôi sử dụng trong bài này:
Ví dụ:
- Để giúp học sinh thấy rõ hơn về vấn đề chớp thời cơ, giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Tại sao Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh không quyết định Tổng khởi nghĩa sớm hơn hay muộn hơn một chút?
(Vì nếu sớm hơn thì kẻ thù chưa hoàn toàn suy yếu, còn nếu muộn hơn thì quân Đồng minh kéo vào...) 
Em có nhận xét gì về khoảng thời gian soạn thảo và đọc Tuyên ngôn Độc lập? 
(nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời)
Tại sao trong Tuyên ngôn Độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh lại trích dẫn "Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ" và "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của cách mạng Pháp ?
(Tôn trọng những tuyên ngôn bất hủ của người Mĩ và Pháp vì những điều được nêu là chân lí của nhân loại; Dùng cách lập luận "gậy ông đập lưng ông" để buộc tội Pháp và ngăn chặn âm mưu tái xâm lược của chúng; Thể hiện quyền tự hào dân tộc.....).
5. Phương pháp thảo luận nhóm
a. Chuẩn bị
- Giáo viên chuẩn bị bảng phụ lớn (hoặc giấy A0).
- Học sinh nghiên cứu trước câu hỏi ở nhà mà giáo viên yêu cầu. 
b. Tiến hành
- Đối với bài này tôi cho các em thảo luận nhóm với kĩ thuật khăn trải bàn. 
- Mục đích kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm để kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập giữa học sinh với học sinh. 
- Chia học sinh thành các nhóm và phát bảng phụ lớn (hoặc giấy A0 ), chia bảng phụ thành phần chính giữa và các phần xung quanh, mỗi thành viên trong nhóm ngồi vào các vị trí tương xứng xung quanh.
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ rồi viết vào phần của mình trên bảng phụ.
- Trên cơ sở ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến rồi viết vào phần chính giữa của bảng phụ lớn.
Ví dụ: 
I. Lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố.
Sau khi tìm hiểu tình hình thế giới và trong nước, Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận trong 5 phút với câu hỏi sau:
- Đảng ta nhận định thời cơ Cách mạng đã chín muồi, vậy thời cơ trong cách mạng tháng Tám là gì?
II. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Sau khi học diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa, giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận trong 5 phút với câu hỏi sau:
- Vì sao Cách mạng diễn ra, giành thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu?
6. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
Hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ, phim tư liệu có ý nghĩa to lớn trong dạy học lịch sử: mắt thấy, tai nghe, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, có tác dụng giáo dục tư tưởng, tính cách, phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ cho học sinh.
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình vẽ, tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ. Sau đó, đặt câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời để khắc sâu kiến thức. 
Ví dụ: 
- Giáo viên cho học sinh theo dõi đoạn phim tư liệu về Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, cho học sinh mô tả lại quang cảnh của buổi lễ và nêu ý nghĩa của sự kiện này.
- Giáo viên chuẫn bị một số biểu tượng, treo lược đồ câm lên bảng, gọi học sinh lên trình bày diễn biến của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Học sinh trình bày đến đâu thì gắn biểu tượng đến đó. Sau đó, đặt câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời để khắc sâu kiến thức. 
7. Trò chơi lịch sử
Sử dụng trò chơi trong dạy học lịch sử có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết, không chỉ nhằm mục đích giải trí cho học sinh mà còn tạo nên một không khí hăng say học tập, các em có thể độc lập suy nghĩ tìm tòi hoặc phối hợp với các bạn trong nhóm để có đáp án nhanh và chính xác.
Trò chơi có thể sử dụng dưới nhiều hình thức nhưng phải khắc sâu nội dung của bài học, thông qua câu hỏi các em phải tìm ra câu trả lời, đó là các sự kiện hay nhân vật lịch sử. Vì thế, học lịch sử qua hình thức trò chơi sẽ thấy thoải mái hơn, hứng thú hơn, từ đó ghi nhớ tốt những kiến thức cơ bản mà không bị gò ép.
7.1: Trò chơi ô chữ
a. khái quát:
- Đây là cách thức mô phỏng theo các sân chơi phổ biến hiện nay như: “Đường lên đỉnh Olympia” hay “Chiếc nón kì diệu” trên truyền hình.
-Trò chơi có thể được sử dụng linh hoạt trong các tiết dạy và nên đưa vào cuối giờ nhằm cũng cố kiến thức bài học.
b. Cách tạo ô chữ
- Khi soạn bài, tôi thiết kế một hệ thống ô chữ gồm nhiều ô chữ hàng ngang và một ô chữ hàng dọc. Mỗi ô chữ hàng ngang là một đơn vị kiến thức trong bài và sẽ có một chữ cái chìa khóa. Mỗi ô hàng ngang có một câu hỏi để học sinh giải đáp. Sau khi giải hết các ô chữ hàng ngang với các chữ cái xuất hiện, học sinh sẽ tìm được ô chữ hàng dọc. Ô chữ hàng dọc sẽ là tên, địa danh, nhân vậttrong nội dung bài học.
c.Tiến hành chơi: 
- Khi tổ chức trò chơi, giáo viên gọi cá nhân, nhóm chọn câu hỏi và trả lời, trả lời đúng thì ô chữ xuất hiện. Nếu ô chữ chưa trả lời hết mà học sinh biết từ khóa cũng có thể cho học sinh đoán.
- Mỗi câu hỏi giáo viên qui định số điểm, phần thưởng,để cuốn hút các em tham gia. 
Trò chơi này tôi áp dụng ở phần củng cố kiến thức: tôi cho các em chơi trò chơi ô chữ. Giải ô chữ hàng ngang để tìm chùm chìa khoá hàng dọc.
Giáo viên có thể thiết kế ô chữ trên bảng phụ hoặc chiếu ô chữ lên màn hình máy chiếu, gọi học sinh trả lời câu hỏi.
7.2. Trò chơi phán đoán nhân vật lịch sử
a. Khái quát: 
Đây là một trò chơi (giống như trò chơi trúc xanh trên tivi ), với trò chơi này sẽ giúp các em tìm tòi, khám phá các câu hỏi về lịch sử để đoán tên nhân vật lịch sử, sự kiện giáo viên cần trình bày.
b. Chuẩn bị: 
- Giáo viên chuẩn bị hình ảnh các nhân vật, hoặc sự kiện lịch sử.
- Dùng giấy kiến trong bọc lại, vẽ các ô số che lên hình nền. Mỗi hình nền là một câu hỏi
- Nếu dạy giáo án điện tử, giáo viên thiết kế trên powerpoint tiện lợi hơn.
c.Tiến hành:
- Khi tổ chức trò chơi, giáo viên gọi cá nhân, nhóm, hoặc tập thể chọn ô số và trả lời câu hỏi của giáo viên, chỉ khi trả lời đúng mới được lật ô số để đoán hình nền. Nếu ô số chưa lật hết mà học sinh biết hình nền thì cho học sinh đoán.
- Mỗi ô giáo viên qui định số điểm, hoặc phần thưởng,để cuốn hút các em tham gia. 
Trò chơi này tôi áp dụng ở phần khởi động: tôi cho các em chơi trò chơi đoán nhân vật lịch sử.
- Giáo viên đưa ra hình nền đã che khuất bằng các ô số, học sinh tuỳ chọn ô số để trả lời các câu hỏi. 
8 . Áp dụng sơ đồ tư duy (Mind Maps)
Sau khi giảng xong bài học thì giáo viên hướng dẫn học sinh ghi bài bằng sơ đồ tư duy về Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong quá trình học sinh làm bài thì giáo viên đi quan sát, em nào chưa rõ thì giáo viên hướng dẫn lại.
Chương V. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 
* Nhận đinh kết quả: Tổng số học sinh khối 9 của trường là 109
 + Số phiếu phát ra 109 phiếu
 + Số phiếu thu vào 109 phiếu
 + Số phiếu trả lời đúng: 105 phiếu đạt 96,3%
Như vậy học sinh hiểu bài đạt 96,3% của toàn khối
Sau khi áp dụng kinh nghiệm trên vào các giờ dạy học môn lịch sử lớp ở trường Trung học cơ sở Hoàng Hoa Thám, tôi nhận được những kết quả khả quan như sau:
- Học sinh chú ý và hứng thú hơn trong giờ học lịch sử, những trường hợp làm việc riêng hay ngáp dài không còn nữa. 
- Học sinh thảo luận sôi nổi, tích cực, thường xuyên giơ tay để được trả lời các câu hỏi.
- Ý thức hợp tác của các em trong các giờ học được nâng lên rõ rệt.
- Các em có ý thức tự giác học bài, làm bài và chuẩn bị bài mới tốt hơn.
- Các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong việc thể hiện quan điểm của mình.
- Điểm kiểm tra lịch sử của các em cao hơn.
Với bài 23 tôi đã áp dụng ở trường Trung học cơ sở Hoàng Hoa Thám và từ chắt lọc kinh nghiệm thực tế giảng dạy trong năm học trước, tôi thu được một số kết quả đáng kể là chất lượng được nâng cao rõ rệt qua từng tiết học. 
 So với kết quả khảo sát đầu năm môn sử 9 thì kết quả kiểm tra học kì I và kiểm tra 1 tiết học kì II được nâng lên. 
Khảo sát đầu năm
Kết quả
Khối lớp
Tổng số HS
Khá - giỏi
Trung bình
Yếu - kém
9
109
32,1 %
54,1 %
13,8 %

Kết quả học kì I.
Kết quả
Khối lớp
Tổng số HS
Khá - giỏi
Trung bình
Yếu - kém
9
139
50,5 %
43,1 %
6,4 %

Kết quả cuối năm.
Kết quả
Khối lớp
Tổng số HS
Khá - giỏi
Trung bình
Yếu - kém
9
109
76,1 %
23,9 %
0 %
→ Từ kết quả cho thấy tỷ lệ học sinh khá giỏi từ (32,1%) đầu năm, tăng lên (50,5%) ở học kì I và cuối năm tăng lên (76,1%); Tỷ lệ học sinh yếu, kém đã giảm: Đầu năm là (13,8%) đến kết quả học kì I giảm xuống còn (6,4%) và cuối năm không có học sinh nào.
 *Bài học kinh nghiệm.
 Từ thực tế giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân:
- Trước khi đến lớp, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy. Như vậy, kiến thức của giáo viên sẽ luôn được củng cố và nâng cao.
- Kết hợp tốt các phương pháp dạy học và nội dung lồng ghép phải phù hợp.
- Giáo viên phải luôn tạo ra một giờ học thật thoải mái, nhẹ nhàng, không gượng ép học sinh. 
- Để giúp học sinh nâng cao ý thức học tập thì người giáo viên phải có tâm huyết, yêu nghề; biết gợi mở, động viên kịp thời để học sinh ham học hơn.
- Nắm bắt được đối tượng học sinh và tình hình thực tế ở địa phương từ đó xây dựng hệ thống phương pháp khắc phục phù hợp với năng lực học sinh.
- Biết phân chia lượng kiến thức kịp thời vừa phải để đưa vào tiết học (kiến thức phải chắc lọc theo chuẩn kiến thức hiện nay).
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
- Phương pháp dạy học rất đa dạng, có tầm quan trọng trong quá trình dạy học, người giáo viên phải biết lựa chọn nghiên cứu, phối hợp các phương pháp dạy học đặc biệt là phương pháp dạy học tích cực sao cho phù hợp với mục tiêu chung của bài học, gây hứng thú cho học sinh, từ đó học sinh chủ động học tập, tìm tòi sáng tạo và thêm yêu thích môn học. 
- Việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng bộ môn. Chính vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải khơi gợi tính tích cực của học sinh, phải thực sự tâm huyết, phải tìm tòi, nghiên cứu, đầu tư vào bài giảng và vận dụng các phương pháp sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng học sinh. 
- Tôi mong muốn tạo nên sự hứng thú học tâp cho các em, có hứng thú thì mới phát huy được tính tích cực, chủ động học tập, phát triển tư duy sáng tạo, khắc sâu kiến thức và từ đó sẽ nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử.
- Tính thiết thực của sáng kiến kinh nghiệm áp dụng rộng rãi ở các trường trong huyện và trong tỉnh vì đây là vấn đề thực tiễn nhất tôi đã chắt lọc và áp dụng thử nghiệm trong ba năm đã đạt được kết quả tương đối tốt, từng bước nâng cao chất lượng và nhận thức của học sinh một cách hiệu quả nhất.
II. NHỮNG ĐỀ NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học môn Lịch sử ở trường trung học cơ sở hiện nay, tôi đề xuất một vài kiến nghị như sau: 
Thứ nhất, về công tác tập huấn cho giáo viên: Trước những yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, cần tổ chức các đợt tập huấn về sử dụng phương pháp dạy học tích cực cho giáo viên, có các tiết dạy mẫu cho giáo viên dự giờ, rút kinh nghiệm.
Thứ hai, về phía Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Thế: cần quan tâm hơn nữa tới việc đẩy mạnh sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học bộ môn lịch sử nói riêng và các môn khoa học xã hội nói chung của các nhà trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Yên Thế. Trong cấu trúc của các đề thi học kì, thi học sinh giỏi cần có những câu hỏi liên hệ, đánh giá, khái quát để học sinh có cơ hội thể hiện sự hiểu biết và quan điểm của mình, qua đó phần nào đánh giá được hiệu quả giảng dạy thực tiễn của giáo viên các trường.
Thứ ba, về phía các nhà trường cần tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề về sử dụng phương pháp dạy học tích cực. Cần dành một phần kinh phí của các nhà trường để tổ chức các buổi giao lưu với nhân chứng lịch sử hoặc các buổi tham quan các di tích lịch sử - cách mạng cho giáo viên và học sinh.
Thứ tư, về phía giáo viên: Để nâng cao hiệu quả giáo dục cho học sinh trong dạy học lịch sử đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức chuyên môn vững vàng, thường xuyên phải cập nhật những kiến thức mới đồng thời phải học hỏi nâng cao kĩ năng nghiệp vụ và thao tác sư phạm. Tự bản thân mỗi giáo viên phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với trong việc đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử. 
Do chưa có nhiều thời gian nghiên cứu và ứng dụng, đôi điều đúc kết được trên đây chỉ là kinh nghiệm bước đầu. Trên đây tôi xin góp một số kinh nghiệm về “Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng môn Lịch sử lớp 9”. Đây chỉ là ý kiến chủ quan của riêng cá nhân tôi để tạo hứng thú cho học sinh và tăng hiệu quả của giờ dạy lịch sử. Chắc chắn trong quá trình trình bày vấn đề này (là vấn đề tương đối phức tạp và nhạy cảm) sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong được sự trao đổi, góp ý chân thành của các đồng chí đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn và được áp dụng có hiệu quả trong quá trình dạy học ở trường trung học cơ sở.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA BGH NHÀ TRƯỜNG

Cầu Gồ, ngày 24 tháng 5 năm 2019
Người viết
Nguyễn Thị Lương Yến

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT HUYỆN YÊN THẾ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư Pháp (www.moj.gov.vn), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục năm 2009.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử, trung học cơ sở. Nhà xuất bản giáo dục 
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo viên Lịch sử lớp 9. Nhà xuất bản giáo dục. 
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 9. Nhà xuất bản giáo dục. 
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu tập huấn đổi mới sinh hoạt chuyên môn, Nhà xuất bản Đại học sư phạm (2014)
6. Nguyễn Thị Côi (2006), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
7. Phan Ngọc Liên, Trương Hữu Quýnh (1998), Phương pháp dạy học lịch sử. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Hội. 
8. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng (1992), "Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở phổ thông”, tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 1/1992. 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_van_dung_cac_phuong_phap_day_hoc_tich.doc