Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tích tích cực cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở ba lớp 12A5, 11A4, 10A7 trường THPT Quan Sơn
Đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới dạy học môn lịch sử nói riêng là mộtvấn đề đươc Đảng và Nhà nước ta quan tâm và thường xuyên bàn luận tranh cãi nhiều nhất trong mấy năm gần đây. Dạy như thế nào, học như thế nào để đạt được hiệu quả học tập cao nhất là điều mong muốn của bất kỳ thầy cô giáo nào ở mỗi chúng ta. Muốn vậy chúng ta phải đổi mới phương pháp, biện pháp dạy và học. Người giáo viên phải tổ chức linh hoạt các hoạt động của học sinh từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc giờ học, từ cách ổn định lớp, kiểm tra bài cũ đễn cách học bài mới, củng cố dặn dò. Nững hoạt động đó giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, tích cực, sáng tạo và ngày càng có hứng thú, yêu thích môn học.
Để góp phần vào dạy học nói chung và tôi đưa ra đề tài: “Vận dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tích tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở ba lớp 12A5,11A4,10A7 trường THPT Quan Sơn”.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm thế nào để phát huy được tính tích cực trong học môn lịch sử của học sinh thì có rất nhiều cách thức, biện pháp. Ví dụ như: Vận dụng đồ dung trực quan, hưỡng dẫn học sinh ghi nhớ các sự kiện, biến cố hay kể chuyện, nói chuyện lịch sử, nắm vững sử dụng sách giáo khoa…Nhưng việc sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học nói chung và dạy lịch sử nói riêng là một trong những biện pháp rất quan trọng và thiết thực để phát triển tư duy ở học sinh. Qúa trình hoạt động chung và thống nhất giữa cô và trò nhịp nhàng sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những kiế thưc cơ bản, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý thức chân trọng và tự hào dân tộc cho các em. Mặt khác nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà trường và phát huy hết năng lực của các em khá giỏi, nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự kiện, hiện tượng và nhân vật lịch sử.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tích tích cực cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở ba lớp 12A5, 11A4, 10A7 trường THPT Quan Sơn

loại này cũng chính là câu bài tập muốn trả lời được phải huy động kiến thức toàn bài. Chính vì thế học sinh phải chuẩn bj bài và trả lời trước câu hỏi cuối mục ở nhà, chú ý tập trung theo dõi bài giảng chọn lọc sự kiện và trình bày trên lớp. b. Xác định mỗi liên hệ, xâu chuỗi các câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng trong bài học. Ví dụ: Ở lớp 11. Sau khi học xong bài 20, 21: “Phong trào kháng chiến chống Pháp trong những năm cuối thế kỉ XIX” (lịch sử 11 trang 115, 124 SGK). Chúng ta có thể tổ chức trò chơi giải ô chữ để cho các em xâu chuỗi các sự kiện, hiện tượng lịch sử lại với nhau để các em khắc sâu hơn kiến thức và có hứng thú học tập qua các câu hỏi gợi ý như sau: Hệ thống các câu hỏi trò chới Câu 1: Nơi mà quân ta giành thắng lợi trong hai lần quânPháp tiến đánh Bắc kì (1873- 1874 và 1882-1883) Câu2: Đây là hiệu của ông vua trẻ kiên quyết chống Pháp. Câu 3: Tên Hiệp ước triều đình Huế kí với Pháp năm 1884. Câu 4: Thành miền Tây mà Phan Thanh Giản dâng cho Pháp Câu 5: Tên thật của vua Hàm Nghi. Câu 6: Đây là tên dãy núi vua Hàm Nghi cùng với quân của ông vượt sang Hà Tĩnh. Câu 7: Ông là người đứng đầu phe chủ chiến. C Â U G I Â Y H A M G H I P A T Ơ N Ô T V I N H L O N G Ư N G L I C H T R Ư Ơ N G S Ơ N T Ô N T H Â T T H U Y Ê T A N G I Ê R I Từ chìa khóa. Những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên màn hình, bảng phụ, giấy khổ to để học sinh quan sát câu hỏi và hệ thống kiến thức, học sinh tự tìm ra câu trả lời và mỗi liên hệ giữa chúng. Trong học sinh sẽ có tranh luận và đi tìm đâu là từ chìa khóa của ô chữ bởi từ này giáo viên không sắp xếp trong bảng ô chữ mà để học sinh tự giải mã, phát hiện ra từ chìa khóa là Cần vương. Cánh lập bảng kiểu này rất có hiệu quả nó vì học sinh không dễ nắm được kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục, rền luyện kĩ năng, kĩ xảo, phat hiện tư duy, liên hệ và lô gic bài học ở học sinh và tạo hứng thú trong quá trình lĩnh hội kiến thức của các em. Việc tạo bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mỗi lien hệ giữa chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện ở trên lớp, đồng thời kích thích tính tích cực học tập ở học sinh. c. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp Trong quá trình dạy trên lớp giáo viên cần phải biết đặt câu hỏi và giúp các em giải quyết câu hỏi có tính chất nhận kiến thức. Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với khả năng các em, kích thích tư duy phát triển. Đồng thời tạo ra mỗi lien hệ bên trong của học sinh và học sinh với giáo viên. Có nghĩa mỗi một câu hỏi đưa ra, học sinh và giáo viên phải hiểu rõ vì sao trả lời được, vì sao không trả lời được. Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời. Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi, những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi soạn giáo án và có dự kiến là sẽ đưa ra lúc nào, học sinh sẽ trả lời a sao và đáp án như thế nào. Việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật, các câu hỏi đặt ra buộc học sinh phải suy nghĩ, kích thích được lòng đam mê hiểu biết, trí thông minh và tính sang tạo của các em. Đặc biệt là học sinh yếu, kém tích cực hoạt động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản từ đó các em sẽ hứng thú học tập xây dựng bài tốt hơn. Trong quá trình dạy ta thường dung các dạng câu tính chất, đặc điểm, nguyên nhân các sự kiện lịch sử và thường áp dụng cho học sinh yếu, kém. Ví du: - Nguyên nhân bùng nổ của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (lịch sử lớp11 trang 90 SGK). - Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất định và đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm lịch sử cần tư duy cho học sinh - Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện hiện, tượng lịch sử như diễn biến cuộc khởi nghĩa, diễn biến của một cuộc cách mạng Ví dụ: Ở lớp 12. - Em hãy trình bày diễn biến chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950? (SGK trang 138). - Nêu thuận lợi và khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng tám năm 1945? (SGK trang 122). - Đây là dạng câu hỏi ít suy luận, song yêu cầu có trí nhớ và phải biết nhiều địa danh, sự kiện, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên phải chia câu hỏi thành các câu hỏi nhỏ, đồng thời lập bảng niên biểu và mỗi liên hệ giữa các sự kiện. - Câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiện tượng lịch sử, bao gồm sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tương lịch sử ấy. Loại câu hỏi này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thảo luận để bổ trợ kiến thức cho các đối tượng yếu kém. Ví dụ: - Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”? (Bài 17 SGK Lịch Sử 12 trang 122). - Tại sao Nguyễn Tất Thành lại ra đi tìm đường cứu nước? Hướng đi của người có gì mới so với các nhà yêu nước chống Pháp trước đó? - Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó đòi hỏi các em phải biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện tượng lịh sử. Học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên cần kiên trì đưa them những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của mình. Ví dụ: - Khi dại bài 16. Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám (1939 – 1945). - Câu hỏi nhận thức: Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng ta quyết định tổng khới nghĩa trong toàn quốc? - Câu hỏi gợi mở: Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TW lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) là gì? Yếu tố nào (thời cơ cách mạng) đã xuất hiện đầy đủ ở nước ta lúc bấy giờ ? - Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa lích s ử của sự kiên với dạng câu hỏi này cũng dung cho đối tượng học sinh yếu kém để các em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các em hoạt động liên tục trong quá trình học tập. - Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục, đan xen nhau giữa các sự kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Cần cho học sinh thấy rõ được kết quả của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển lịch sử. Ví dụ: - Em hãy nêu ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Viêt Nam 3.2 1930 (Lịch sử 12 trang 81). - Trình bày nguyên nhân thành công và ý nghĩa thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 (SGK 12 trang 119). Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào SGK để trả lời bằng ngôn ngữ của mình chứ không lặp lại sách giáo khoa. Loại câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này với sự kiện, hiện tượng lịch sử khác mà các em đã học. Đây là loại câu hỏi khá khó đối với học sinh trung học cơ sở (Ưu điểm của loại câu hỏi này là vừa giúp cho học sinh cũng cố ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới và áp dụng khi hoạt động thảo luận nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng nhau giải quyết vấn đề. Ví dụ: Khi học bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược (1965 – 1973). Giáo viên đặt câu hỏi: Chiến lược “ Chiến tranh cục bộ” và “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống nhau và khác nhau? Tóm lại: Các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh, giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Những câu hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ cho các em biết được các sự kiện mà đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó không chỉ đòi hỏi học sinh nhớ các sự kiên lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử. d. Vận dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực của học sinh vào một mục cụ thể: - Thiết kế câu hỏi gợi mowrddeer giải quiets câu hỏi nhận thức. Bài 17: phần III; đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay hòa hoãn giữa Tưởng và Pháp qua Hiệp ước Hoa – Pháp (28 – 2 – 1946), theo hiệp ước này Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế. Ngược lại, Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải pháp khí giới quân Nhật. Điều này vi phạm trắng trợn chủ quyền của dân tộc ta, coi Việt Nam là món hàng để trao đổi. Trước tình hình đó, Đảng ta có chủ trương, sách lược gì để đối phó? Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức: CÂU HỎI NHẬNTHỨC DỰ KIẾN TRẢ LỜI CÂU HỎI GỢI MỞ Vì sao Đảng, chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh kí với thực dân Pháp Hiệp định sơ bộ 6/3/1946? . Vì Pháp và Tưởng kí Hiệp ước Hoa - Pháp (28/2/1946). Sự kiện đó buộc Đảng ta phải chọn 1 trong 2 con đường để hành động. Việc Tươngt và Pháp kí Hiệp ước Hoa - Pháp (28/2/1946). Đặt ra cho Đảng ta 1 trong 2 con đường lựa chọn nào? Vì sao? Một là: Đánh Pháp trước khi Pháp đưa quân ra Bắc kì. Như vậy cùng một lúc phải đánh cả Pháp lẫn Tưởng. Hai là: Hòa với Pháp mượn tay Pháp để gạt Tưởng, loại bớt được một kẻ thù nguy hiểm, kéo dài được thời gian để chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để chống Pháp Đảng ta lựa chọn con đường thứ 2, vi đất nước ta lúc này rất khó khăn không thể một lúc đánh nhau với nhiều kẻ thù. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sang kiến kinh nghiệm này vào tiết dạy và đạt được hiệu quả tốt. Trước hết bản thân đã nhận thấy những kinh ngiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa va những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sang tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn. + Kết quả cụ thể. Lớp SLSH Giỏi Khá Tb Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 12A5 37 20 54,1 4 10,8 8 21,6 5 13,5 0 0 10A7 36 23 63,9 8 22,2 3 8,3 2 5,6 0 0 11A4 37 20 54,1 4 10,8 8 21,6 5 13,5 0 0 Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi dẫ rút ra được một số kinh ngiêm sau: - Trong mỗi tiết dạy giáo viên nêu mục tiêu yêu cầu của tiết, mục của bài học sau đó cung cấp thông tin và phân bổ thời gian hợi lí để học sinh tiếp nhận thông tin. - Giáo viên đặt và sử dụng linh hoạt các câu hỏi phù hợp với nội dung bài dạy, tùy theo khối lớp và đối tượng học sinh mà vận dụng. - Khi nêu câu hỏi gióa viên cố gắng sử dụng các câu hỏi ngắn gọn, đủ ý, đơn giản, dễ hiểu, gợi sự suy nghĩ và tư duy của học sinh. Không nên sử dụng câu hỏi “ có hay không, đúng hay sai” mà phải sử dụng câu hỏi phát huy tính độc lập tư duy ở các em (tránh tình trạng học sinh trả lời một cachs chung chung). - Khi tổ chức học sinh tiếp nhận thông tin giáo viên chú ý sử dụng câu hỏi gợi mở (chuẩn bị kĩ ở giáo án) để giải quyết câu hỏi đặt ra đầu giở. - Giáo viên cần nghiên cưu kĩ sách giáo khoa thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để xây dưng các câu hỏi trong các tiết dạy và vận dụng linh hoạt để giải quyết nhiêm vụ nhận thức ở mỗi bài học. - Giáo viên cấn kết hợp các phương tiện dạy học khác như đồ dùng trực quan, hình ảnh, hình vẽ trong sách giáo khoa, các thao tác sư phạm khi lên lớp... Để góp phần phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong mỗi tiết học để nâng cao hiệu quả giờ dạy. - Trong quá trinh giảng bài ngôn ngữ nói phải truyền cảm không quá nhanh hoặc quá chậm lôi cuốn hấp dẫn... - Khi đặt câu hỏi không nên đặt câu hỏi quá dễ làm học sinh thỏa mãn, chủ quan về vốn hiểu biết của mình mà phải làm cho các em hiểu rằng, sự trả lời đúng, đầy đủ câu hỏi do giáo viên nêu ra là tốt, xong vẫn phải tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay hơn sâu hơn... - Cần tạo cơ hội cho học sinh trong cả lớp trả lời, thảo luận nhóm, không nặng nề giờ học tạo nên không khí thoải mái nhẹ nhang. - Giáo viên dạy phải luôn luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới phương pháp dạy học. - Giáo viên cần tự bồi dưỡng năng khiếu vẽ các biểu đồ lược đồ, sự dụng triệt để các phương pháp dạy học tích cực để thu hút sự chú ý của học sinh. Nên có những buổi học ngoại khóa tham quan thực tế các di tích bảo tàng lịch sử. PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Vậy. “Vận dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử” được vân dụng trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả học tập cao nhất về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Đây là hoạt động tương hỗ giữa thầy và trò nhằm giúp cho học sinh độc lập lĩnh hội kiến thức một cách thông minh, vận dụng một cách sáng tạo và thực tế. Điều này quan trọng và đòi hỏi nhiều công sức, lao động sáng tạo, ý thức tinh thần trách nhiệm cao của mỗi giáo viên. Với kinh nghiệm và thực tiễn giảng dạy tại trường tôi chỉ mạnh dạn trình bày quan điểm của mình trong việc sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ dạy lịch sử lớp 10, 11,12, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giúp giáo viên và học sinh trường THPT Quan Sơn nói riêng, các đồng nghiệp và học sinh các trường bạn nói chung thực hiện phương pháp vân dụng những câu hỏi để phát huy tích tích cực của học sinh đạt hiệu quả cao hơn. Phía bản thân sẽ tiếp tục phát huynhững kết quả đạt được của sáng kiến kinh nghiệm, đồng thời không ngừng rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học tại trường. 2. Kiến nghị Hiện nay các thiết bị dạy học ở các trường cơ bản đã được cung cấp và mua sắm khá đầy đủ, song vẫn thiếu ở một số môn. Cụ thể như môn lịch sử ở trường THPT Quan Sơn thiếu tranh ảnh về các di tích, di sản văn hóa lịch sử, chân dung các nhân vật lịch sử có công với đất nước. Nhà trường cần mua một số tài liệu trên để phục vụ giảng dạy để môn học có kết quả cao hơn. Trên đây là một số ngiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy bộ môn tại trường, hiểu biết và kinh nghiệm sẽ không tránh khỏi sai xót, rất mong sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để sáng kings kinh ngiệm tôi hiệu quả hơn. Cuối cùng xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh hóa, ngày 11 tháng 5 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết không sao chép nội dung của người khác. Phạm Thị Thiên TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Sách giáo khoa : lớp10 NXB GD Việt Nam (Tái bản lần thứ năm) Phan Ngọc Liên (Chủ biên). 2. Sách giáo khao lớp 11 : NXB GD Việt Nam Phan TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Sách giáo khoa : lớp10 NXB GD Việt Nam (Tái bản lần thứ năm) Phan Ngọc Liên (Chủ biên). 2. Sách giáo khao lớp 11 : NXB GD Việt Nam Phan Ngọc Liên (Chủ biên). 3. Sách giáo khoa : lớp12 NXB GD Việt Nam (Tái bản lần thứ năm) Phan Ngọc Liên (Chủ biên). DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT 1. THPT: Trường trung học phổ thông 2. SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm 3. SGK: Sách giáo khoa
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_van_dung_he_thong_cau_hoi_de_phat_huy.docx