Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng nội dung chương trình và thực hiện kế hoạch giảng dạy một số Chuyên đề lịch sử địa phương Thanh Hóa ở trường THPT Như Thanh
Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ cấu thành lịch sử dân tộc, là đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử. Lịch sử địa phương có mối quan hệ mang tính chất đặc trưng giữa cái chung và cái riêng, giữa tính đặc thù và cái phổ biến. Việc dạy - học lịch sử địa phương ở trường THPT có ý nghĩa to lớn đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của người học. Từ những hiểu biết về kiến thức lịch sử địa phương giúp học sinh hiểu biết sâu sắc hơn về quê hương, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử địa phương.
Mặc dù bộ môn Lịch sử nói chung, lịch sử địa phương nói riêng có vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức tự hào dân tộc. Nhưng trong thực tiễn nhiều năm qua việc dạy và học lịch sử địa phương Thanh Hóa ở các trường THPT trên địa bàn toàn tỉnh chưa thực sự được quan tâm. Chính bởi vậy mà sau khi học hết cấp THPT, hầu như học sinh chưa hiểu biết nhiều về lịch sử địa phương, nơi mình đã sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Điều đó đã phản ánh một thực tế việc dạy - học lịch sử địa phương ở trường THPT hiện nay chưa thực sự được các cấp, các ngành và ngay cả giáo viên bộ môn Lịch sử quan tâm, đầu tư đúng mức.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng nội dung chương trình và thực hiện kế hoạch giảng dạy một số Chuyên đề lịch sử địa phương Thanh Hóa ở trường THPT Như Thanh

ện trong những xóm làng rộn rã tiếng máy dệt, máy se đay. Được tham quan quy trình làm cói, cũng như các sản phẩm cói độc đáo. Khi về, du khách đừng quên lựa chọn một vài đôi chiếu cói Nga Sơn và các sản phẩm từ cói độc đáo cho gia đình và người thân của mình. 3.5.2. Nghề chạm khắc đá làng Nhồi (Đông Sơn) Cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 5 km về phía Tây, du khách dừng chân ghé thăm dãy núi An Hoạch (Đông Sơn), nơi có hòn Vọng Phu từ bao đời vẫn đứng sừng sững chờ chồng. Du khách sẽ được thăm thú làng nghề đục đá nổi tiếng (làng Nhồi), giao lưu với những nghệ nhân tài hoa nơi đây. “Mồng một anh hát ở đây Mồng hai anh lại đi xây thành Hồ...” Theo ghi chép và những hiện vật còn lại đến nay, nghề chạm khắc đá ở làng Nhồi (Đông Sơn) đã có từ thời nhà Lý. Làng Nhồi là nơi có mỏ đá nổi tiếng xứ Thanh từ thời xa xưa. Sử sách cổ còn ghi lại rằng “Sắc đá óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt, đẽo thành khánh khi đánh lên thì tiếng ngân muôn dặm, dùng làm bia văn chương, để lại thì còn mãi muôn đời”. Theo bước chân của những người thợ tài hoa, đá làng Nhồi đã có mặt ở hầu khắp mọi miền đất nước, dựng xây biết bao công trình, để lại nhiều tác phẩm nghệ thuật còn mãi với thời gian. Đến với làng nghề, du khách như đang lạc vào một thế giới khác lạ, kỳ thú trước muôn vàn những hiện vật sinh động, được chế tác từ đá núi Nhồi. Lặng ngắm những pho tượng, phù điêu hoa lá, chim muông, các mẫu vật bằng đá hết sức tinh xảo, được trưng bày trong khung cảnh ấn tượng, mọi người càng thêm cảm phục đôi bàn tay tài hoa, lòng yêu nghề của những nghệ nhân nơi đây. 3.5.3. Nghề đúc đồng ở đất Kẻ Chè (Thiệu Hóa) Từ bao đời nay, làng Trà Đông (xưa gọi là Kẻ Chè) thuộc xã Thiệu Trung, Thiệu Hóa, là nơi lưu giữ và phát huy nghề đúc đồng truyền thống ở xứ Thanh. Họ đã mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, ngày đêm miệt mài luyện đồng , đúc trống, khát khao giữ hồn dân tộc. Bằng bàn tay khéo léo và tài hoa của mình, các nghệ nhân nơi đây đã và đang khôi phục những sản phẩm truyền thống như: đúc chiêng, trống đồng, tượng đồng, đồ thờ, lư hương,... Trong các sản phẩm đúc đồng truyền thống đó, đỉnh cao là nghệ thuật đúc trống đồng Đông Sơn với những chi tiết tinh xảo theo đúng hoa văn kiểu dáng xưa. Hiện nay, làng có hàng trăm lò đúc đồng, với hàng nghìn thợ thủ công lao động ngày đêm tất bật. Mỗi năm, làng nghề cho xuất xưởng nhiều mặt hàng, đồ vật gia dụng có giá trị được làm từ đồng. Những sản phẩm này được tiêu thụ trong cả nước và xuất khẩu đi nước ngoài. Về nguyên liệu và kỹ thuật, các nghệ nhân của làng nghề đều thực hiện các công đoạn chủ yếu là thủ công truyền thống: công đoạn làm khuôn, nấu nguyên liệu, đúc, nguội, đánh bóng và nhuộm sản phẩm,... Những sản phẩm của làng nghề phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại bao gồm: đồ mỹ nghệ, đồ tế khí, đồ phụ tùng máy móc công nghệ, đồ lưu niệm,... đủ để phục vụ cho mọi nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là phục vụ các công trình tôn giáo như: đền, chùa và các sản phẩm đặc thù khác. 3.5.4. Nghề làm nem chua Hạc Thành Nghề làm nem chua Hạc Thành có từ những năm 60, 70 của thế kỉ XX ở phường Đông Hương (T.P Thanh Hóa). Ngày nay, nghề này phát triển trên địa bàn rộng khắp nhiều nơi trong tỉnh, trở thành món ăn nổi tiếng của xứ Thanh, là món quà quý cho nhiều người mỗi khi đến với Thanh Hóa. Để có được những chiếc nem ngon cần phải có bí quyết gia truyền. Nem được làm bằng thịt lợn nạc, lọc kỹ để bỏ gân, đem thái thật mỏng, sau đó cho vào cối giã nhỏ mịn. Giã thịt là khâu đòi hỏi kỹ thuật công phu. Người giã thịt phải có sức khỏe, phải giã thật nhanh, đều. Thành phần chủ đạo thứ hai là bì lợn được cạo thật sạch, luộc chín, thái nhỏ như miến sợi. Bì lợn thái nhỏ trộn với thịt nạc xay, nêm muối tinh rang khô, nước mắm ngon, mì chính, hạt tiêu và thính. Thính là thành phần quan trọng làm nên hương vị riêng của từng loại nem. Thính được làm từ gạo, gạo đem rang chín vàng thơm rồi xay thật nhỏ. Cách tra thính nhiều hay ít, sớm hay muộn, cũng là bí quyết riêng của từng nhà. Tất cả được ủ một thời gian để lên men. Sau đó thịt được vê tròn thành từng viên hình trụ hoặc tròn. Người làm nem khéo léo lót một nhánh lá đinh lăng bánh tẻ nhỏ rồi dùng lá chuối gói lại sao cho chặt và kín. Để đáp ứng khẩu vị của thực khách đặt hàng, nem chua còn được lót đôi ba lát tỏi mỏng và ít lát ớt tươi gia tăng vị cay và làm cho món nem chua thêm hấp dẫn. 3.5.5. Nghề làm chè lam Phủ Quảng Chè lam Phủ Quảng (Vĩnh Lộc) từ lâu đã là món ăn đặc sản nổi tiếng của xứ Thanh. Tương truyền rằng, trước đây Lê Lợi khởi nghĩa ở Thanh Hóa thì món chè lam Phủ Quảng là lương thực chủ yếu để nhân dân nuôi nghĩa quân. Đây cũng là vùng đất mà con cháu vua Lê, chúa Trịnh sinh sống rất nhiều. Họ rất tự hào về món chè lam Phủ Quảng của xứ mình. Đó không chỉ là món qùa quê hương, mà còn là món ăn mang nặng nghĩa tình và ghi lại dấu ấn lịch sử. Nguyên liệu làm chè bao gồm: nếp thơm, lạc, đường và gừng. Nếp làm kẹo là loại nếp cái đầu: mười hạt mẩy đều cả mười. Người ta đem ngâm gạo vào nước cho mềm rồi mang đi xay ở cối đá. Bột xay để lắng, nước trong nổi ở trên rồi được mang đi “tắm” vải thô, sau đó để cho bột ráo. Người ta bẻ bột thành miếng như miếng cau rồi đem phơi nắng cho giòn. Gạo nếp rang chín đến độ giòn, có mùi thơm dịu. Khi rang gạo nếp phải chú ý lửa, cách đảo tay để tất cả các hạt đều chín, thơm như nhau. Lạc rang được giã đôi, giã ba. Gừng quê được đồ lên rồi sắt lát thật nhỏ, thật đều. Mật mía Kim Tân - Thạch Thành là loại mật có vị ngọt, độ sánh, mùi thơm để cho vào chảo thắng đều cho đến khi thấy sôi lăn tăn. Lúc đó, người ta chấm đầu đũa vào chảo, thả giọt mật vào bát nước lạnh. Nếu giọt mật vón cục lại thì mật đã thắng đủ độ. Tất cả nguyên liệu được đổ đều, nhanh tay vào chảo mật. Người ta luyện chè thật nhanh, thật khéo để tạo sự gắn kết, dẻo dai của chè. 3.5.6. Nghề làm bánh Gai Tứ Trụ Bánh gai Tứ Trụ khởi đầu là do người làng Mía trong vùng làm ra để cúng giỗ Lê Lợi, Lê Lai, cúng ông bà Tổ tiên trong Tết Nguyên đán và lễ hội trong năm. Dần dần, nghề làm bánh Gai được phổ biến ở các làng vùng Tứ Trụ xã Thọ Diên (Thọ Xuân) và trở thành đặc sản của xứ Thanh, nổi tiếng cả nước. Nguyên liệu làm dễ tìm kiếm, nhưng lại hơi cầu kỳ. Gạo nếp cái hoa vàng xay lọc lấy tinh bột, mật mía loại ngon nhất vùng, thịt lợn nạc làm thành ruốc bông, đậu xanh đãi vỏ, đồ chín giã nhỏ, dừa già nạo thành sợi trắng như sợi cước, vừng rang vàng thơm, lá gai (cây gai mọc trên đồi, củ gai thường làm thuốc an thai) tước gân, luộc lên giã nhỏ lấy tinh bột, lá chuối khô để gói bánh. Cách làm bánh: Đem tinh bột nếp trộn với bột lá gai và mật mía rồi cho vào cối đá giã kỹ. Càng giã kỹ càng dẻo, bánh càng dai, càng ngon. Công đoạn này quan trọng nhất, vất vả nhất gọi là luyện bột. Bột luyện xong nặn thành bánh. Đậu xanh trộn với mật mía, với ruốc thịt cấy vào làm nhân. Bánh màu đen, ngoài vỏ cấy dừa sợi và vừng đã rang vàng. Sau đó dùng lá chuối khô, gói bánh (khoảng 10 lớp lá) xếp 5 cái bánh thành một cuộn tròn buộc lại bằng lạt giang nhuộm phẩm đỏ cho đẹp. Đặt bánh vào chõ, đồ cho đến lúc bánh chín. Bánh Gai Tứ Trụ có hương vị ngon mà các loại bánh ngọt khác không có được. 3.5.7. Nghề dệt thổ cẩm ở Quan Hoá Nghề dệt thổ cẩm ở mỗi dân tộc, vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam đều có những đặc trưng riêng. Đối với đồng bào dân tộc Thái ở Quan Hóa, mỗi sản phẩm làm ra của người thợ thủ công đều mang đậm dấu ấn truyền thống, thể hiện tính thẩm mỹ cao, lòng kiên trì của người phụ nữ. Chỉ với một chiếc máy dệt thô sơ, người phụ nữ Thái ở đây đã làm ra được nhiều loại vải khác nhau rất đẹp và bắt mắt. Những hoa văn dệt trên trang phục thổ cẩm chẳng những phản ánh tay nghề, kỹ xảo tài hoa của người lao động, mà còn phản ánh khả năng cảm thức thiên nhiên của con người nơi đây. Những nghệ nhân dệt đồ thổ cẩm họ đã thổi hồn vào sản phẩm dệt truyền thống của dân tộc mình, làm phong phú và đẹp thêm cuộc sống văn hóa của đồng bào dân tộc vùng cao Quan Hóa. Với những sản phẩm quen thuộc nơi đây như chăn, đệm, túi sách, quần áo,... đã góp phần làm phong phú hơn kho tàng truyền thống văn hóa các dân tộc Việt Nam. 3.5.8. Nghề làm bánh đa nem cầu Bố 3.5.9. Nghề làm thuốc lào Quảng Xương 3.5.10.Nghề làm mật mía: Thạch Thành, Cẩm Thủy 3.5.11. Bánh tráng làng Chòm: Làng Chòm thuộc xã Thiệu Châu, huyện Thiệu 3.5.12. Nghề gốm Lò Chum: Nghề gốm Lò Chum, phường Đông Hương (T.P Thanh Hóa) 3.5.13. Nghề mộc Đạt Tài: Nghề mộc Đạt Tài, nay thuộc xã Hoằng Đạt (Hoằng Hóa). 3.5.14. Làng nghề mây tre đan Hoằng Thịnh (Hoằng Hóa) Nội dung ở phần phụ lục 3.5.15. Thực hiện kế hoạch giảng dạy chuyên đề này ở trường THPT Như Thanh Dựa trên cơ sở cấu trúc chương trình dạy học lịch sử ở trường THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành như hiện nay. Nhóm chuyên môn của chúng tôi đã xây dựng kế hoạch dạy học chuyên đề này cho học sinh khối 12 để các em thấy được Thanh Hóa với nhiều tiềm năng để phát triển ngành kinh tế thủ công nghiệp truyền thống trong thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Sau khi học chuyên đề này, học sinh phải thấy được trách nhiệm của bản thân trong việc phát huy những tiềm năng của các làng nghề truyền thống ở địa phương mình hiện nay. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng, thiết kế nội dung chương trình dạy học lịch sử địa phương đóng vai trò quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch sử ở trường THPT. Từ hoạt động thực tiễn này, giáo viên thấy được sự phát triển đa dạng, độc đáo của lịch sử địa phương đặt trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Việc nghiên cứu, biên soạn chương trình lịch sử địa phương tỉnh nhà của giáo viên nếu được thực hiện tốt sẽ là yếu tố quyết định đến chất lượng dạy - học lịch sử địa phương ở trường THPT hiện nay. Thông qua những tri thức lịch sử địa phương được khai thác trên các mặt lịch sử, chính trị, văn hóa... sẽ có ý nghĩa giáo dục học sinh lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, con người xứ Thanh trong qúa trình đấu tranh dựng và giữ nước, đặc biệt kể từ khi Đảng ra đời. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, xứ sở. Từ đó, các em nhận thấy mình phải luôn có ý thức bảo vệ, giữ gìn các di sản văn hóa, di tích lịch sử. Qua những tiết học lịch sử địa phương, học sinh sẽ hiểu biết sâu sắc, toàn diện về lịch sử, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của con người xứ Thanh. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1.Kết luận Việc giảng dạy lịch sử nói chung, lịch sử địa phương nói riêng để đạt được hiệu qủa, giáo viên đóng vai trò quan trọng. Người thầy không chỉ chuyền lửa cho học sinh mà còn phải luôn sáng tạo những phương pháp dạy học khác nhau nhằm nâng cao hiệu qủa bài học. Ngoài phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên có thể thực hiện một số hình thức khác như: tham quan thực tế các di tích lịch sử văn hóa địa phương, tổ chức ngoại khóa dưới hình thức các trò chơi hái hoa dân chủ ngoài trời, tìm về cội nguồn, tổ chức các buổi trao đổi, kể chuyện với nhân chứng lịch sử nhân ngày lễ kỷ niệm thành lập Đảng, thành lập Đoàn, thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam... Để thực hiện thành công nội dung chương trình dạy lịch sử địa phương ở trường THPT, ngoài việc đổi mới hình thức và phương pháp dạy học, thì nguồn tư liệu lịch sử phục vụ cho bài dạy sẽ là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định đến hiệu qủa bài học. Bởi vì, thông qua nguồn tư liệu lịch sử, giáo viên sẽ cụ thể hóa, tái hiện lại những sự kiện, hiện tượng lịch sử địa phương một cách chân thật, sinh động như nó đã từng diễn ra trong qúa khứ. Hiện nay, nguồn tư liệu lịch sử địa phương phục vụ cho công tác giảng dạy còn rất ít, hoặc không có. Vì thế, để thực hiện tốt chương trình dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT đòi hỏi mỗi giáo viên phải tự tìm tòi, tích lũy, sưu tầm và lựa chọn những tài liệu phù hợp, đáng tin cậy để có đủ khả năng khắc họa lại những nét khái quát, toàn diện về điều kiện tự nhiên, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa xứ Thanh. Nếu giáo viên có sự đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ xây dựng nội dung chương trình thì bài học mới đạt hiệu qủa như mong muốn, gây được hứng thú cho học sinh trong học tập. Các em sẽ cảm thấy thú vị, tích cực và chủ động hơn mỗi khi học và tìm hiểu về lịch sử địa phương Thanh Hóa. 2. Những kiến nghị đề xuất a. Đối với sở GD&ĐT Thanh Hóa - Sở Giáo dục và Đào tạo cần chỉ đạo bộ môn Lịch sử xây dựng khung chương trình, nội dung dạy học lịch sử địa phương Thanh Hóa ở cấp THPT cho giáo viên trong tỉnh thực hiện. - Nên đưa nội dung lịch sử địa phương vào chương trình thi cử (bài kiểm tra 15 phút, 45 phút) để giáo viên và học sinh chú ý, quan tâm đến chất lượng bài học. - Sở Giáo dục và Đào tạo nên phân bố các tiết dạy học lịch sử địa phương ở giữa kì. Nếu dạy tiết học này ở cuối kì và cuối năm như hiện nay thì hầu như giáo viên thường sử dụng tiết học để ôn tập phần kiến thức thông sử là chính. - Hàng năm, Sở Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức những chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT cho giáo viên có điều kiện thuận lợi trao đổi, học hỏi kinh nghiệm chuyên môn. - Cử giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy những chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học lịch sử địa phương để giáo viên trong tỉnh tham khảo, học tập, rút kinh nghiệm. - Khuyến khích những giáo viên có kinh nghiệm biên soạn, xây dựng nội dung chương trình lịch sử địa phương để bộ môn có một nội dung dạy học chung, thống nhất trong toàn tỉnh. - Tập hợp những sáng kiến kinh nghiệm viết về lịch sử địa phương hay, có tính thực tiễn và khả năng ứng dụng cao để báo cáo dưới dạng chuyên đề bồi dưỡng theo chu kì thường xuyên. b. Đối với Nhà trường - Cần quan tâm nhiều hơn đến bộ môn Lịch sử, mạnh dạn đầu tư nguồn kinh phí để xây dựng thư viện nhà trường có nhiều loại sách viết về lịch sử địa phương Thanh Hóa. - Hàng năm, nhà trường nên tạo nguồn kinh phí tổ chức cho học sinh đi tham quan thực tế các khu di tích lịch sử nằm trên địa bàn của huyện nhà, tỉnh nhà gắn với các tiết học lịch sử địa phương. Qua đó giáo dục cho học sinh lòng yêu quê hương, đất nước. - Đầu tư nguồn kinh phí cho những buổi sinh hoạt ngoại khóa về lịch sử địa phương để nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn Lịch sử, làm tăng tính thực tiễn của bài học. Trên đây là những kinh nghiệm được đúc kết qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy chương trình lịch sử địa phương ở trường THPT Như Thanh. Rất mong được đồng nghiệp và quý thầy cô đóng góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm này hoàn thiện hơn. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp và quý thầy cô! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯƠNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, tháng 5 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Nguyễn Xuân Tịnh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dư địa chí Thanh Hóa tập I, II - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - năm 2004 2. Di tích - Danh thắng miền Tây Thanh Hóa. Nhà xuất bản Thanh Hóa - 2013 3. Vua Lê Đại Hành và quê hương Trung Lập - Nhà xuất bản Thanh Hóa năm 2013 4. Thành Nhà Hồ Di tích và danh thắng - Nhà xuất bản Thanh Hóa năm - 2012 5. Làng cổ Đông Sơn - Lương Đại Dũng 6. Danh nhân văn hóa Đông Sơn 7. Một số tư liệu về lịch sử Thanh Hóa của Ban Tuyên giáo Tỉnh Ủy
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_xay_dung_noi_dung_chuong_trinh_va_thuc.doc