Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học Lịch sử

  1. Bối cảnh, lý do chọn đề tài

Trong dạy học lịch sử, ngoài việc giúp cho học sinh nắm được kiến thức cơ bản, giáo dục tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, giáo viên còn phải giúp cho học sinh phát triển năng lực nhận thức.

Theo Giáo trình phươngpháp dạy học lịch sử, hệ thống bài tập nhận thức là điều kiện cần thiết để phát triển tư duy học sinh trong học tập lịch sử. Tuy nhiên, theo nhận định của một số nhà nghiên cứu: “bài tập nhận thức hiện còn mới mẻ đối với việc học lịch sử ở nước ta”, “chúng ta chưa có quan niệm đầy đủ về sự cần thiết của hệ thống bài tập nhận thức trong học lịch sử, (thậm chí có người cho rằng học tập lịch sử không cần bài tập”[3, tr.115-116]. Đây chính là lý do mà tôi quan tâm đến việc “Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạyhọc lịch sử”.

docx 17 trang SKKN Lịch Sử 27/08/2025 20
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học Lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học Lịch sử

Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học Lịch sử
 cả những thứ ấy nhằm mục đích là làm cho các đấu sĩ không thể giết nhau ngay lập tức. Cuộc đấu càng kéo dài, máu đấu sĩ chảy càng nhiều, càng được xem là hấp dẫn và được người xem càng tán thưởng, hò reo, thích thú.[5, tr.120]
Ở phương Tây cổ đại, nô lệ là lực lượng sản xuất chính, nuôi sống xã hội, nhưng hiện tượng trên lại thường xuyên diễn ra.
Yêu cầu có thể đặt ra:
Em có suy nghĩ gì về nghịch lý ở hiện tượng trên?
Hãy cho biết ý kiến của em về hệ quả của những trò vui tàn bạo nêu trên của chủ nô.
Có thể cho học sinh giải bài tập này ở nhà, sau khi dạy xong mục 2. Thị quốc Địa Trung Hải (hết tiết 1 của bài này).
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, học sinh phải sử dụng kiến thức đã biết: nô lệ là lực lượng sản xuất chính, nuôi sống xã hội. Đối chiếu với thông tin từ tư liệu trên, học sinh có thể tìm được câu trả lời: Nô lệ là lực lượng sản xuất chính, nuôi sống xã hội, lẽ ra phải được bảo vệ. Song, tư liệu trên cho thấy, tính mạng của nô lệ bị xem thường. Đây là điều nghịch lý.
Đối với câu hỏi thứ hai, trên cơ sở nhận thức được hiện tượng nêu trên là biểu hiện của áp bức, vận dụng hiểu biết về quy luật “có áp bức có đấu tranh”, học sinh có thể tìm được câu trả lời: Hiện tượng nêu trên là biểu hiện cụ thể của hành vi áp bức. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Hệ quả chắc chắn xảy ra là nô lệ sẽ nổi dậy đấu tranh.
Bài 11. Tây Âu thời hậu kì trung đại; Mục 4. Cải cách tôn giáo và chiến tranh
nông dân
Một trong những kiến thức cần giúp học sinh hiểu rõ: nguyên nhân dẫn đến cải
cách tôn giáo.
Có thể sử dụng tư liệu sau đây để xây dựng bài tập:
Đầu thế kỉ XVI khắp phố chợ ở Tây Âu người ta thấy các tu sĩ xà vào những chỗ đông người, ra bán (thẻ xá tội): “Đem tiền ra mau! Hãy cứu vớt những người ruột thịt và thân thích ! Chỉ cần đồng tiền kêu trong đáy túi của ta, linh hồn của người phạm tội sẽ được lên thiêng đàng !”[1, tr.36]
Hỏi: Cho biết nhận xét của em về tính chất (bình thường hay không bình thường) của hiện tượng trên? Theo em, hiện tượng trên có thể tồn tại lâu dài được không? Vì sao?
Có thể cho học sinh giải bài tập này trước khi giảng mục 4. Cải cách tôn giáo và chiến tranh nông dân.
Để giải được bài tập này học sinh phải vận dụng những những kiến thức đã biết về nghi lễ, luật lệ Kitô giáo làm căn cứ, đối chiếu với hiện tượng cụ thể mà tư liệu bài tập cung cấp để phát hiện tính chất của hiện tượng đó. Trên cơ sở đó mà xác định mối liên hệ giữa tính chất của hiện tượng với khả năng tồn tại của hiện tượng.
Mua bán thẻ xá tội hay dùng tiền để rửa tội là hiện tượng thô tục, trái với giáo lý, nghi lễ. Đó là hiện tượng không bình thường. Giáo dân chắc chắn sẽ phản đối hiện tượng trên để bảo vệ giáo lý, lễ nghi, những điều rất thiêng liêng đối với họ. Bên trong hiện tượng trên đã chứa đựng mầm mống của sự tiêu diệt. Hiện tượng trên không thể tồn tại lâu dài được.
Thực nghiệm sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử
Để đánh giá khả năng, hiệu quả, ý nghĩa của việc sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở một số lớp 10 do nhà trường phân công giảng dạy trong năm học 2009 – 2010. Các lớp thực nghiệm là 10A11, 10A14; các lớp đối chứng là 10A13, 10T2. Đây là những lớp có trình độ nhận thức lịch sử tương đối ngang bằng.
Việc tiến hành thực nghiệm được tiến hành qua hai bước. Bước 1: Cho học sinh các lớp thực nghiệm giải bài tập nhận thức. Bước 2: Kiểm tra nhận thức của học sinh các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng để so sánh và đánh giá khả năng, hiệu quả, ý nghĩa của việc sử dụng bài tập.
Tôi thực nghiệm sử dụng bài tập nhận thức ở hai bài học, cụ thể như sau:
Bài thứ nhất: Bài 10. Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở
Tây Âu (Từ thế kỉ V đến thế kỉ XIV).
Ở mục 1. Sự hình thành các vương quốc phong kiến ở Tây Âu, một trong những vấn đề học sinh cần nắm vững: sau khi chinh phục Rôma, người Giecman từ bỏ chế độ bộ lạc, xưng vua, bắt đầu quá trình phong kiến hóa.
Nhằm giúp học sinh thu nhận thêm kiến thức cụ thể, rèn luyện năng lực nhận thức cho học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn kiến thức về sự chuyển biến của xã hội người Giecman trước và sau khi chinh phục được Rôma, kết thúc bài học, tôi yêu cầu học sinh giải bài tập nhận thức sau:
Trong cuộc xâm chiếm thành phố Xoát Xông, quân đội Phơrăng (một bộ tộc của ngưởi Giecman) đã cướp đoạt được nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có cái bình thờ rất đẹp. Clôvit muốn biếu cái bình đó cho nhà thờ Cơ đốc giáo, nên xin riêng cái bình thờ đó. Một người lính đã đập vỡ cái bình đó và nói: “Anh chỉ được nhận phần nào mà anh rút thăm được”. Clôvit căm tức, nhưng không nói gì. Năm sau, sau khi chinh phục được đế quốc Rôma, Clôvit xưng vua. Khi duyệt binh, Clôvit gặp lại người lính cũ đã đập vỡ cái bình . Lấy cớ người lính giữ gìn vũ khí không sạch, Clôvit vứt cái rìu của anh ta xuống đất để anh ta cúi xuống nhặt. Lợi dụng lúc anh ta không đề phòng, Clôvit liền bổ vào đầu anh ta và nói: “Mày còn nhớ cái bình Xoát Xông không?” Những người lính khác không dám phản đối hành động của Clôvit.[6, tr.14]
Hỏi:
Thái độ, hành động của Clôvit và những người lính trước và sau khi chinh phục được đế quốc Rôma khác nhau như thế nào?
Dựa vào những hiểu biết về xã hội của người Giecman trước và sau khi chinh phục được đế quốc Rôma, em hãy giải thích vì sao có sự khác nhau này?
Yêu cầu về mặt nội dung và phương pháp khi giải bài tập này:
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, học sinh cần sử dụng năng lực phân tích tư liệu để
nêu lên cốt lõi của vấn đề:
Trước khi chinh phục Rôma, những người lính đã phản đối việc Clôvit lấy của chung làm của riêng; Clôvit phục tùng ý kiến của tập thể. Sau khi chinh phục được đế quốc Rôma, Clôvit hành động tàn bạo; những người lính không dám phản đối hành động của Clôvit.
Câu thứ hai đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức đã biết về xã hội của người Giecman trước và sau khi chinh phục Rôma đối chiếu với tư liệu để tìm ra câu trả lời.
Trước khi chinh phục Rôma, xã hội của người Giecman là công xã nguyên thủy, công bằng, bình đẳng được xem là “nguyên tắc vàng”. Ý định chiếm của chung làm của riêng là trái với nguyên tắc xã hội, do đó những người lính đã phản đối và Clôvit phải phục tùng.
Sau khi chinh phục Rôma, xã hội của người Giecman bắt đầu quá trình phong kiến hóa, theo đó quyền lực của vua là tối thượng, do đó Clôvit đã hành động tàn bạo và những người lính đã không dám phản đối.
Kết quả giải bài tập của học sinh ở các lớp thực nghiệm:
Tỉ lệ học sinh trả lời được câu hỏi thứ nhất: 80,7%
Tỉ lệ học sinh trả lời được câu hỏi thứ hai: 73,1%
Tiếp theo, tôi tiến hành kiểm tra nhận thức ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng. Câu hỏi kiểm tra nhận thức: Xã hội của người Giecman trước và sau khi chinh phục được đế quốc Rôma khác nhau như thế nào? Kết quả:
Tỉ lệ học sinh các lớp thực nghiệm trả lời được: 88,9%
Tỉ lệ học sinh các lớp đối chứng trả lời được: 79,6%
Bài thứ hai: Bài 17. Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến
(Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)
Ở mục II.2. Luật pháp và quân đội, một trong những kiến thức cần giúp học sinh nắm vững: mục đích của việc ban hành luật là bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị, một số quyền lợi chân chính của nhân dân và an ninh đất nước.
Nhằm giúp học sinh hiểu sâu kiến thức, rèn luyện năng lực tư duy cho học sinh, sau khi học xong bài học, giáo viên yêu cầu học sinh giải bài tập sau:
Luật Hồng Đức có quy định: Đào trộm đê đập làm thiệt hại lúa má thì xử tội đồ, lưu, bắt đền tổn hại. [4, tr.89]
Hỏi: Mục đích trước mắt và sâu xa của điều luật trên là gì? Hãy giải thích câu trả lời của em.
Yêu cầu đối với học sinh về mặt nội dung và phương pháp khi giải bài tập này:
Vận dụng kiến thức đã biết về vai trò của đê đập, vai trò của nông nghiệp, vai
trò của luật pháp, đối chiếu với tư liệu mà bài tập cung cấp để tìm ra câu trả lời.
Đê đập có vai trò quan trọng trong việc ổn định nguồn nước. Giữ được đê đập là góp phần đảm bảo năng suất sản xuất nông nghiệp. Như vậy, trước mắt, nhà nước muốn thông qua việc bảo vệ đê đập để bảo vệ sản xuất nông nghiệp, ổn định kinh tế.
Mất mùa có thể ảnh hưởng đến việc nộp tô thuế, gây mất ổn định xã hội. Luật có vai trò bảo vệ quyền lợi của giai cấp, ổn định xã hội. Cho nên, ngoài mục đích bảo vệ sản xuất nông nghiệp, sâu xa hơn, điều luật trên còn góp phần bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, ổn định trật tự xã hội.
Kết quả giải bài tập này của học sinh ở các lớp thực nghiệm:
Tỉ lệ học sinh trả lời được “mục đích trước mắt”: 92,2%
Tỉ lệ học sinh trả lời được “mục đích sâu xa”: 82,4%
Tiếp theo, tôi tiến hành kiểm tra nhận thức ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng. Câu hỏi kiểm tra nhận thức: 1. Cho biết vai trò của luật pháp? 2. Sự quan tâm của nhà nước đối với nông nghiệp được thể hiện như thế nào? Kết quả:
Tỉ lệ học sinh các lớp thực nghiệm trả lời được câu 1: 97%, câu 2: 94%
Tỉ lệ học sinh các lớp đối chứng trả lời được câu 1: 90%, câu 2: 65%
2.2.2.2. Nhận xét về hiệu quả của việc sử dụng bài tập nhận thức
Kết quả kiểm tra nhận thức sau khi sử dụng hai bài tập cho thấy, ở các lớp thực nghiệm, khả năng nhớ và vận dụng kiến thức lịch sử, cách lập luận, trình bày vấn đề của các em tốt hơn các lớp đối chứng. Những mặt tích cực có được như thế chắc chắn là hệ quả của quá trình giải bài tập trước đó của các em.
Để giải được bài tập nhận thức đòi hỏi học sinh phải sử dụng năng lực nhận thức cái cụ thể như quan sát, hình dung, tưởng tượng, lựa chọn các chi tiết cần thiết để trên cơ sở đó, học sinh sử dụng các hình thức hoạt động tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, vận dụng những kiến thức đã biết, soi vào những điều kiện đã cho ở bài tập, tìm ra lời giải, phát hiện ra kiến thức mới theo yêu cầu của bài tập. Nói cách khác, bài tập nhận thức yêu cầu học sinh phải sử dụng năng lực nhận thức cái cụ thể và năng lực tiến hành các hình thức hoạt động tư duy. Việc sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử thật sự có tác dụng tích cực trong việc phát triển năng lực nhận thức cho học sinh.
Ban đầu, khi yêu cầu học sinh giải bài tập các em rất ngỡ ngàng và cho rằng đây là nhiệm vụ nặng nề, khó có thể hoàn thành. Nhưng khi được giáo viên giải thích rõ mục đích, hướng dẫn phương pháp giải bài tập, các em tỏ ra hứng thú khi thực hiện nhiệm vụ này. Khi giải bài tập thứ hai, các em rất tích cực, cho rằng đó là thử thách thú vị, muốn thử sức để qua đó chứng tỏ năng lực nhận thức của mình.
Kết quả thực nghiệm có được qua bước đầu sử dụng bài tập nhận thức cho thấy khả năng, hiệu quả và ý nghĩa rõ ràng của việc sử dụng bài tập nhận thức trong dạy lịch sử.
PHẦN 3. KẾT LUẬN
Những bài học kinh nghiệm
Sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử là một trong những biện pháp tích cực đối với việc phát triển năng lực nhận thức cho học sinh, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng bộ môn. Với ý nghĩa tích cực như vậy, bài tập nhận thức rất cần được đưa vào thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Muốn sử dụng bài tập nhận thức trước hết phải nghiên cứu cách thức xây dựng bài tập. Khi xây dựng bài tập cần bám sát mục tiêu của bài học, mục tiêu cụ thể của các đề mục có liên quan. Trên cơ sở xác định kiến thức trọng tâm của bài học, đề mục, cần khai thác những vấn đề, những khía cạnh mà học sinh khó hiểu, cần giáo viên giúp đỡ để hiểu sâu để tìm tư liệu xây dựng bài tập như một “bài toán”. Yêu cầu hay câu hỏi mà bài tập nhận thức đặt ra nhất thiết phải đảm bảo yêu cầu học sinh phải tư duy, vận dụng kiến thức đã biết soi vào tư liệu do bài tập cung cấp mới có thể tìm ra câu trả lời.
Tùy theo chủ ý của giáo viên khi xây dựng bài tập, chuẩn bị bài giảng, đặc điểm học sinh, có thể sử dụng bài tập nhận thức ở đầu, giữa hay cuối chương, bài hay đề mục nào đó.
Thời gian đầu, giáo viên chỉ nên ra các bài tập đơn giản và cần hướng dẫn các em cách giải bài tập, chẳng hạn giải thích các bước tiến hành, cách phân tích giả thiết, cách xây dựng các bước trong lập luận Khi học sinh quen dần với việc giải bài tập, giáo viên có thể cho học sinh giải các bài tập phức tạp hơn, yêu cầu học sinh độc lập tìm ra lời giải.
Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Do chưa có nhiều thời gian nghiên cứu và ứng dụng, đôi điều đúc kết được trên đây chỉ là kinh nghiệm bước đầu. Bản thân xem đây là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu
xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong thời gian tới. Trên cơ sở nắm vững cách thức xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức, nếu được vận dụng vào thực tế dạy học, chắc chắn đây sẽ là biện pháp tích cực nhằm phát triển tư duy học sinh, thực hiện tinh thần đổi mới phương pháp, khắc phục tâm lý cho rằng học sử chỉ cần học thuộc lòng.
Khả năng ứng dụng và triển khai
Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử là công việc không đơn giản. Chính vì thế cho nên đến hiện tại công việc này “vẫn còn mới mẻ”. Song đây cũng không phải là công việc quá khó. Thực tế nghiên cứu xây dựng và thực nghiệm sử dụng bài tập cho phép tôi khẳng định điều này. Nếu giáo viên quan tâm đúng mức, việc xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử sẽ trở thành phổ biến.
Những kiến nghị, đề xuất
Để tạo thuận lợi cho giáo viên, thiết nghĩ rất cần có những công trình nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về đề tài “Bài tập nhận thức” làm cơ sở để giáo viên tham khảo. Giáo viên cần có nhiều diễn đàn để trao đổi, bàn bạc, tìm giải pháp có hiệu quả cho vấn đề này. Sách giáo khoa không nên biên soạn theo kiểu là nguồn thông báo kiến thức mà phải là tài liệu làm việc của học sinh. Nghĩa là sách cần cung cấp nhiều tài liệu lịch sử cụ thể hơn, để trên cơ sở đó, giáo viên có thể xây dựng bài tập nhận thức hoặc tổ chức các hoạt động nhận thức khác, giúp các em rèn luyện tư duy, biết cách khám phá kiến thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lương Ninh – Đặng Đức An, 1976, Lịch sử thế giới trung đại (quyển 1,
tập1), NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 36
I.Ia. Lerner, Bài tập nhận thức, người dịch: Nguyễn Cao Lũy và Văn Chu,
Viện Chương trình và phương pháp – Bộ Giáo dục, 43 trang.
Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị (chủ biên), 1999, Phương pháp dạy học lịch
sử, NXB Giáo dục, 296 trang.
Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), 2008, Lịch sử 10, NXB Giáo dục, 208
trang.
Nhiều tác giả, 1983, Tư liệu giảng dạy lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo dục,
Hà Nội, trang 120.
Đặng Đức An, Phạm Hồng Việt, 1978, Lịch sử thế giới trung đại, T1, NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 14
MỤC LỤC

Trang
Phần 1. Mở đầu	1
Bối cảnh, lý do chọn đề tài	1
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu	1
Mục đích nghiên cứu	1
Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu	1
Điểm mới trong kết quả nghiên cứu	2
Phần 2. Nội dung	3
Thực trạng xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức
trong dạy học lịch sử	3
Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử	3
Thế nào là bài tập nhận thức?	3
Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức	5
Xây dựng bài tập minh họa	6
Thực nghiệm sử dụng bài tập nhận thức
trong dạy học lịch sử	9
Nhận xét về hiệu quả của việc sử dụng
bài tập nhận thức	12
Phần 3. Kết luận	14
Những bài học kinh nghiệm	14
Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm	14
Khả năng ứng dụng và triển khai	15
Những kiến nghị, đề xuất	15
Tài liệu tham khảo	16

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_xay_dung_va_su_dung_bai_tap_nhan_thuc.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học Lịch sử.pdf