SKKN Đổi mới không gian lớp học góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học trong môn Lịch sử ở trường THCS Chu Văn An - Nga Sơn
Như chúng ta đã biết hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) đã đi vào thực tế ở các trường học. Chúng ta đã áp dụng nhiều phương pháp, cách thức đổi mới để làm nổi bật vai trò của người học. Tuy vậy cách mà chúng ta đang làm chưa có thể làm cho hoạt động học của học sinh được thể hiện rõ vai trò là người chủ động tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức thực sự. Bởi cách chúng ta đang đổi mới chỉ mới chú tâm đến quan hệ giữa thầy và trò, còn quan hệ giữa trò và trò chưa được chú trọng. Trên thực tế đổi mới PPDH chỉ đạt được kết quả khi người học được trao đổi với nhau…
Trong các phương pháp đổi mới dạy học, người dạy đã có nhiều cách đổi mới tuy vậy tôi thấy chúng ta chưa chú tâm đến cách bố trí lớp học mà theo tôi nghĩ đổi mới PPDH phải đi liền với đổi mới không gian lớp học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Đổi mới không gian lớp học góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học trong môn Lịch sử ở trường THCS Chu Văn An - Nga Sơn

sinh được nhìn thấy mặt nhau trong quá trình trả lời, thảo luận, trao đổi... do đó sự tập trung cao hơn và hoạt động dạy học được mở rộng ra tất cả học sinh trong lớp vì không gian lớp học đã được mở rộng.. Về đơn vị tổ theo tôi với các bố trí lớp học như trên thì không có tổ cố định và cũng không có tổ trưởng và thư ký cố định. Hôm nay học sinh có thể ở tổ này nhưng hôm sau có thể ở tổ khác, nhóm trưởng và thư ký sẽ được thay nhau thứ tự trong lớp. Tổ chức được điều này sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính tự giác, sự chủ động, tích cực của học sinh cũng như lồng ghép việc giáo dục được kỹ năng sống cho học sinh trong từng tiết dạy đặc biệt là kỹ năng làm việc với nhóm mới đây là điều đang rất cần trong thời đại hội nhập hiện nay... Việc thảo luận, trao đổi diễn ra trong một không gian lớp học mới. (Tác giả đang tiến hành thực nghiệm mô hình lớp học mới) Thứ hai, bàn ghế giáo viên có thể sẽ không đặt ở vị trí cũ mà sẽ chuyển xuống giữa 2/3 lớp học điều này sẽ giúp giáo viên gần học sinh hơn. Ngoài ra khi người học tham gia vào tiết học nhiều hơn thì người thầy sẽ không còn được “ngồi” trên ghế nữa mà buộc người dạy phải hoạt động cao hơn sát sao học sinh hơn, tức người thầy ở thế “động” nhiều hơn, vai trò là trọng tài là người hướng dẫn thể hiện rõ hơn. Thứ ba, trên bàn giáo viên ngoài máy chiếu đa năng là phương tiện để giáo viên đổi mới phương pháp tôi muốn nhấn mạnh đến việc dùng máy chiếu hắt. Bởi lẽ nếu như máy chiếu đa năng là phương tiện để giáo viên đổi mới phương pháp thì máy chiếu hắt là phương tiện để người học bày tỏ quan điểm, kết quả học tập của mình trước thầy giáo, trước lớp qua đó mà giáo dục thêm kỹ năng sống cho học sinh. Màn chiếu được bố trí cố định trên tường bằng cách bảng đen được chia thành 3 ô, một phần để ghi nội dung bài giảng, một phần dùng để làm bảng phụ và một phần để đèn chiếu. Tuy vậy điều này có thể linh hoạt trong tiết học nhưng phần để đèn chiếu nên là cố định. Thực tế đặt ra là ở các trường không có đầy đủ các phương tiện dạy học thì mô hình lớp học có thực hiện được không? Câu trả lời là có! Bởi lẽ máy chiếu đa năng, máy chiếu hắt chỉ là các phương tiện hỗ trợ cho công tác dạy và học nếu thiếu các phương tiện này giáo viên sẽ sử dụng bảng phụ, giấy A3, Ao để thiết kế. Hiện nay ở các nhà trường THCS thuộc PGD Nga Sơn đều có máy chiếu hắt nhưng không được sử dụng, việc triển khai SKKN này sẽ sử dụng được phương tiện đang cất ở các thư viện. Đặc biệt, giáo viên chỉ mua giấy trong một lần để học sinh sử dụng thảo luận nhiều lần đỡ tốn kém so với giấy Ao chỉ sử dụng một lần. Một vấn đề nữa tôi mạnh dạn đưa ra cách thay đổi theo mô hình lớp học trên đó là vị trí chỗ ngồi của giáo viên dự giờ. Xưa nay người dự giờ thường ngồi ở bàn cuối điều này là chỉ phù hợp với đối tượng để quan sát, để đánh giá nhận xét chính là người dạy. Hiện nay người đi dự giờ không chỉ quan sát người dạy mà quan trọng hơn là quan sát hiệu quả của phương pháp đó qua cách học, cách làm việc của người học. Do đó vị trí ngồi của người dự giờ theo tôi tốt nhất là ở vị trí của bàn giáo viên hiện nay (tức là quay lại quan sát lớp học). 2.3.3. Tổ chức triển khai SKKN đến giáo viên và học sinh. Trong các năm qua được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường SKKN của tôi đã được tổ chức hội thảo rút kinh nghiệm cấp trường và được nhà trường tổ chức triển khai ở học tập trước khi triển khai ở lớp học. Ngoài việc thảo luận trao đổi với giáo viên, để SKKN này đi vào thực tế phục vụ đối tượng là học sinh bản thân tôi đã tranh thủ thời gian, trao đổi với học sinh lớp thực nghiệm nội dung SKKN. Vì mục đích của SKKN là tạo ra sự thay đổi tư duy và gây hứng thú hoc tập cho học sinh, phát triển về kỹ năng sống, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng trình bày Vì vậy, sau khi học sinh được nghe trình bày về sự thay đổi mô hình lớp học sẽ tạo ra sự thay đổi động hình trong cách học, chủ động làm chủ kiến thức. 2.3.4. Sự thay đổi trong cách thiết kế bài giảng. Như đã nói mục đích của sáng kiến là tập trung vào học sinh, làm sao cho học sinh chủ động làm việc, chủ động lĩnh hội kiến thức nên khi không gian lớp học đã thay đổi thì phương pháp của giáo viên cũng thay đổi. Ví dụ khi dạy mục I - Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai (Bài 9 Tiết 11 lớp 9 - Nhật Bản), ở lớp học đối chứng (lớp 9B) chúng ta sẽ tiến hành như sau. Tiết 11. Bài 9. Nhật Bản I. Mục tiêu bài học. Sau khi hoàn thành bài học, HS cần: 1. Kiến thức Là nước bại trận nhưng đã vươn lên trở thành một siêu cuờng kinh tế đứng thứ hai thế giới sau Mĩ. Chính sách đối ngoại của giới cầm quyền Nhật. 2. Thái độ, tình cảm, tư tưởng Giáo dục ý chí vươn lên, tinh thần lao động hết mình, tôn trọng kỉ luật của người Nhật. 3. Kĩ năng Rèn cho HS phương pháp tư duy: phân tích so sánh, liên hệ. II. Thiết bị, tài liệu dạy học Bản đồ Nhật Bản, Châu Á. Một số tranh ảnh về nước Nhật. III. Tiến trình tổ chức dạy học 1. Kiểm tra bài cũ: - Tình hình nước Mĩ sau Chiến tranh thế giới thứ hai? - Chính sách đối nội và đối ngoại của Mĩ sau Chiến tranh thế giới thứ hai? 2. Giới thiệu bài mới 3. Dạy và học bài mới Hoạt động của GV và HS Nội dung kiến thức cần đạt Hoạt động 1: Cá nhân. GV giới thiệu bản đồ Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai. GV nêu câu hỏi: Hãy cho biết tình hình Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai? HS dựa vào nội dung SGK để trả lời câu hỏi. GV nhận xét, bổ sung và kết luận. Hoạt động 2: Nhóm, cá nhân. GV cho HS thảo luận nhóm với câu hỏi: Nhật Bản đã có những cải cách gì? Nội dung và ý nghĩa của những cải cách đó? GV hướng dẫn HS trả lời câu hỏi và nhấn mạnh: Cải cách trên các lĩnh vực kinh tế , hiến pháp, quân đội. HS dựa vào nội dung SGK để thảo luận và trình bày kết quả. GV nhận xét, bổ sung và kết luận. I. Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh. - Sau chiến tranh, Nhật Bản mất hết thuộc địa, kinh tế bị tàn phá, khó khăn bao trùm: thất nghiệp, thiếu lương thực - Đất nước bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. - Nhật Bản tiến hành một loạt cải cách dân chủ: ban hành Hiến pháp mới, thực hiện cải cách ruộng đất, giải giáp các lực lượng vũ trang, ban hành các quyền tự do dân chủ - ý nghĩa: Chuyển từ chế độ chuyên chế sang chế độ dân chủ, tạo nên sự phát triển thần kì về kinh tế. Ngược lại khi dạy mục I – Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai (Bài 9 Tiết 11 lớp 9 - Nhật Bản), ở lớp học thực nghiệm (lớp 9A) chúng ta sẽ tiến hành như sau. Tiết 11. Bài 9. Nhật Bản I. Mục tiêu bài học. Sau khi hoàn thành bài học, HS cần: 1. Kiến thức Là nước bại trận nhưng đã vươn lên trở thành một siêu cuờng kinh tế đứng thứ hai thế giới sau Mĩ. Chính sách đối ngoại của giới cầm quyền Nhật. 2. Thái độ, tình cảm, tư tưởng Giáo dục ý chí vươn lên, tinh thần lao động hết mình, tôn trọng kỉ luật của người Nhật. 3. Kĩ năng Rèn cho HS phương pháp tư duy: phân tích so sánh, liên hệ. II. Thiết bị, tài liệu dạy học Máy chiếu, bảng phụ ... Bản đồ Nhật Bản, Châu Á. Một số tranh ảnh về nước Nhật. III. Tiến trình tổ chức dạy học 1. Kiểm tra bài cũ. Giáo viên không thực hiện theo cách thông thường mà yêu cầu học sinh gấp SGK lại dựa vào nội dung mục I - Tình hình nước Mĩ sau chiến tranh thế giới thứ hai để đặt những câu hỏi liên quan đến nội dung bài học (tùy thuộc nội dung yêu cầu). Vì đã được tiến hành học trong không gian lớp học mới nên học sinh đó chủ động trong học tập vì vậy đây là một câu hỏi khó nhưng trong quá trình tự học, học sinh cũng đó tự đặt câu hỏi để giải quyết, nên học sinh lớp thực nghiệm có thể đưa ra các câu hỏi như: - Trình bày sự phát triển kinh tế Mĩ sau chiến tranh thế giới thứ hai? - Vì sao sau chiến tranh thế giới thứ hai Mĩ trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất? - Nguyên nhân nào làm cho nền kinh tế Mĩ suy giảm? Sau khi học sinh đặt câu hỏi, giáo viên yêu cầu một em nhận xét câu hỏi, giáo viên chốt và gọi một em trả lời câu hỏi. Như vậy, cũng trong cùng một thời gian trong lớp học thực nghiệm giáo viên có thể kiểm tra được 3 học sinh. 2. Giới thiệu bài mới 3. Dạy và học bài mới Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh - Giáo viên giới thiệu hai nội dung cơ bản mà học sinh phải nắm được trong quá trình tìm hiểu mục I - Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh đó là: Học sinh biết được tình hình và những cải cách dân chủ ở Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai? - Giáo viên sử dụng Hình 17 - Lược đồ Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai để dạy toàn bộ mục này, trước khi khai thác kênh hình, giáo viên cho học sinh quan sát toàn bộ lược đồ, đặt một số câu hỏi để các em trả lời như: + Nhật Bản nằm ở khu vực nào? Giáp với các vùng nào? + Nhật Bản gồm có bao nhiêu đảo lớn? Toàn bộ diện tích của Nhật Bản là bao nhiêu? + Điều kiện tự nhiên của Nhật Bản như thế nào? + Vì sao sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản lại bị tàn phá nặng nề ? + Những nguyên nhân nào giúp cho nền kinh tế Nhật Bản phục hồi và phát triển nhanh chóng? - Giáo viên đưa ra kết luận cơ bản để học sinh nắm. I. Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh. - Học sinh nghe, quan sát và trả lời câu hỏi. Với những câu hỏi yêu cầu trả lời trên lược đồ thì học sinh sẽ trả lời trên lược đồ. - Học sinh ghi nội dung vào vở. Sau khi dạy xong bài tôi tiến hành kiểm tra 15 phút câu hỏi là: Em hãy cho biết tình hình nước Nhật sau chiến tranh thế giới thứ hai? Nêu những cải cách dân chủ của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai? Kết quả là: ở lớp đối chứng (lớp 9B) với 35 học sinh chỉ cho ra 1 kết quả duy nhất đó chính là nội dung mà giáo viên ghi bảng. Ngược lại với lớp thực nghiệm (lớp 9A) với 36 học sinh kết quả là nội dung thì có 1 (theo kiến thức chuẩn) nhưng có rất nhiều cách trình bày khác nhau. Thiết nghĩ đây chả phải là kết quả mà chúng ta - những người đang làm nghề trồng người theo đuổi sao? 2.3.5. Tổ chức dạy học theo mô hình lớp học mới. Lớp học một không gian mở. - Khi người học trả lời câu hỏi với cách bố trí lớp học như trên thì cả lớp sẽ được coi là một tổ. Vị trí và cách bố trí bàn ghế giáo viên. Bảng đen. Học sinh trả lời trong lớp. Học sinh thảo luận trong lớp. Học sinh làm việc với máy chiếu hắt. - Hoạt động dạy học không chỉ diễn ra giữa thầy và trò – người được trả lời câu hỏi mà mở rộng ra tất cả học sinh trong lớp vì không gian lớp học đã được mở rộng.. - Học sinh tự học, tự làm lĩnh hội kiến thức. 2.4 Hiệu quả. Tổ chức dạy học theo lớp học cũ Tổ chức dạy học theo lớp học thực nghiệm Việc dạy học tập trung vào quan hệ giữa thầy giáo – người tổ chức, hướng dẫn với 1 học sinh - người được trả lời. Việc dạy học... thể hiện sự tôn trọng, sự lôi cuốn mọi người học vào nội dung. Vị trí bàn nghế giáo viên có tính chất “tĩnh” nên giáo viên có thể “ngồi” dẫn đến hoạt động của giáo viên bị bó hẹp trên bục giảng. Những quy định trên bục giảng được phá vỡ người thầy ở thế “động” nhiều hơn, vai trò là trọng tài là người hướng dẫn thể hiện rõ hơn. Kết quả kiểm chứng. - Kết quả khảo sát chất lượng học kỳ I. Năm học 2017 - 2018 (theo đề Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hóa) Khối 9 HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % Lớp 9A (TN) 36 8 22,3 16 44,4 12 33,3 0 0 Lớp 9B (ĐC) 35 5 14,3 13 37,2 16 45,7 1 2,8 Tổng 71 13 18,4 29 40,8 28 39,4 1 1,4 - Kết quả khảo sát chất lượng học kỳ II. Năm học 2017 - 2018 (theo đề Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hóa) Khối 9 HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % Lớp 9A (TN) 36 11 30,6 17 47,2 8 22,2 Lớp 9B (ĐC) 35 7 20,1 15 42,8 13 37,1 Tổng 71 18 25,3 32 45,1 21 29,6 - Kết quả điều tra trắc nghiệm tâm lý Khối 9 HS Số HS yêu thích môn sử Số HS chưa yêu thích môn sử SL % SL % Lớp 9A 36 32 88,9 4 11,1 Lớp 9B 35 26 74,3 9 25,7 Tổng 71 58 81,7 13 18,3 - Kết quả học sinh giỏi môn Lịch sử: Từ năm 2004 đến nay trong các kì thi học sinh giỏi cấp huyện tôi luôn có học sinh đạt giải cao. Đây chính là nguồn động viên cho sự đầu tư của tôi trong quá trình lên lớp. 3. Kết luận, kiến nghị. 3.1 Kết luận. Năm học 2004 - 2005 trong kỳ thi giáo viên giỏi cấp Tỉnh, tôi là người đầu tiên của tỉnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Tôi còn nhớ vì là tiết dạy đầu tiên của tỉnh ứng dụng công nghệ thông tin của tỉnh trong dạy học nên có nhiều giám khảo đến dự. Tôi bắt dạy ở lớp 6A Trường THCS Điện Biên, tiết 11, bài 10 - Những chuyển biến trong đời sống kinh tế. Một kỷ niệm làm tôi nhớ mãi là khi lên lớp dạy thì học sinh nói là không mang sách giáo khoa, điều này đồng nghĩa với việc học sinh không chuẩn bị bài. Tôi thì mất hết tinh thần, cô giáo dạy sử, cũng là cô giáo chủ nhiệm đi xuống phòng thư viện và mang về mấy cuốn sách, tôi nhớ là hai bàn được một cuốn SGK. Mặc dù vậy tôi cho rằng đây là một tình huống sư phạm mà mình phải xử lý. Đến khi vào tiết dạy tôi cũng không ngờ rằng chính cách thiết kế giáo án đầy mới mẻ có thể nói là “cách mạng” lúc bấy giờ lại mang được hiệu quả như vậy và chính học sinh là người xử lý tình huống này cho tôi. Khi hết giờ thầy Mai Quang Kiêm - chuyên viên Sở giáo dục đã đứng trước lớp đặt một số câu hỏi như các em có thích tiết học lịch sử như thế này không? Vì sao thích?... Sau khi nhận được câu trả lời từ phía học sinh thầy kết luận “đây sẽ là những tiết học của tương lai”. Đến năm học này công tác đổi mới giáo dục đã trải qua nhiều chặng đường, tôi nghĩ mình cũng không thể đi theo một lối dạy cũ dẫu biết nó vẫn còn những tác dụng đến mai sau, do đó tôi mạnh dạn cải tiến hơn nữa phương pháp dạy học nói chung và dạy Lịch sử nói riêng rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô. Tôi xin chân thành cảm ơn! 3.2 Kiến nghị. Cần nâng cao hơn nữa cơ sở vật chất cho các trường học đảm bảo dạy học thực hành, tránh dạy chay, dạy theo bản đồ, tranh treo bảng vì không hợp với thời đại công nghệ 4.0. Tổ chức các chuyên đề về phưong pháp dạy học mới. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Nga Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Mẫu 1 (2) DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN Họ và tên tác giả: Mai Văn Bình Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS Chu Văn An TT Tên đề tài SKKN Cấp đánh giá xếp loại (Ngành GD cấp huyện/tỉnh; Tỉnh...) Kết quả đánh giá xếp loại (A, B, hoặc C) Năm học đánh giá xếp loại Một số biện pháp nâng cao chất lượng tự học của học sinh THCS Tỉnh B 2004 - 2005 Khai thác sử dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả giờ học lịch sử. Tỉnh B 2008 - 2009 Lớp học một không gian mở trong dạy học Lịch sử Tỉnh C 2010 - 2011 Đổi mới không gian lớp học góp phần thúc đẩy đổi mới PPDH Tỉnh B 2012 - 2013 Tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử lớp 7, lớp 9 ở Trường THCS Chu Văn An Tỉnh C 2015 - 2016 ----------------------------------------------------
File đính kèm:
skkn_doi_moi_khong_gian_lop_hoc_gop_phan_thuc_day_doi_moi_ph.doc