SKKN Một số giải pháp trong việc sử dụng, khai thác kênh hình khi dạy Bài 11: Tây Âu hậu kì Trung đại - Lịch sử lớp 10 - Tiết 15, nhằm gây hứng thú học tập của học sinh
Đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nói riêng đang trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay. Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo. Một phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và học sinh phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Một phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học.
Việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử là sự kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn của nhiều phương pháp và mỗi phương pháp đều có vị trí, vai trò nhất định. Trong đó có phương pháp khai thác kênh hình sách giáo khoa phục vụ cho giảng dạy, góp phần tích cực đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Bởi vì, quan niệm về chức năng, tác dụng của kênh hình trong sách giáo khoa đã có nhiều đổi mới. “Trước kia chúng ta thuần túy quan niệm kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở nên sinh động. Ngày nay ngoài chức năng, tác dụng đó, kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử còn là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc truyền bá và nhận thức lịch sử” [5]. Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn giảng, học sinh có điều kiện chủ động, tích cực tham gia vào quá trình tự nhận thức lịch sử một cách tốt nhất.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp trong việc sử dụng, khai thác kênh hình khi dạy Bài 11: Tây Âu hậu kì Trung đại - Lịch sử lớp 10 - Tiết 15, nhằm gây hứng thú học tập của học sinh
ên trong Nghìn lẻ một đêm (cuốn truyện của người Ả rập) và cuốn Những truyện kì lạ (du kí của Mác-cô Pô-lô, người Ý” [1]. Thế kỉ XV con đường mua bán từ châu Âu sang phương Đông bằng đường bộ (Tây Á) và đường thủy (Địa Trung Hải) bị thổ dân Áp-ga-ni-xtan, người Thổ và người Ả - rập độc chiếm. Vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải tìm con đường thương mại giữa phương Đông và châu Âu. Ảnh minh họa: tàu Caraven [7] Ảnh minh họa: La bàn [7] Hải đồ vùng Địa Trung Hải [7] - Mục đích hướng đến về hình ảnh tàu Caraven, La bàn và Hải đồ vùng Địa Trung Hải là: Những tiến bộ của khoa học – kĩ thuật làm tiền đề cho các cuộc phát kiến địa lí. - Nội dung cơ bản để khai thác: Vào thế kỉ XV, khoa học - kĩ thuật có những bước tiến quan trọng. Các nhà hàng hải hiểu biết nhiều về đại dương, có quan niệm đúng đắn về hình dạng Trái Đất. Người ta đã vẽ được nhiều bản đồ, hải đồ ghi rõ những vùng đất, các hòn đảo có dân cư. Máy đo góc thiên văn, sử dụng la bàn được sử dụng trong việc định hướng giữa đại dương bao la. Kỹ thuật đóng tàu có nhiều tiến bộ, người ta đã đóng được những con tàu có bánh lái và hệ thống buồm lớn như tàu Caraven. Đây chính là tiền đề cho các cuộc phát kiến địa lí. - Phương pháp sử dụng: Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ, tranh ảnh giới thiệu và mô tả con đường buôn bán qua Tây Á và Địa Trung Hải bị người Ả-rập độc chiếm, đồng thời giới thiệu về những tiến bộ của khoa học – kĩ thuật tạo tiền đề cho các cuộc phát kiến địa lí, có thể giáo viên gợi mở một số câu hỏi trong quá trình giới thiệu để cuốn hút học sinh lắng nghe và lĩnh hội kiến thức. Sau khi giới thiệu xong, giáo viên đặt câu hỏi: Vậy theo các em đâu là nguyên nhân và điều kiện dẫn đến các cuộc phát kiến địa lí? Học sinh thảo luận và trả lời. Cuối cùng giáo viên kết luận và đưa ra những vấn đề cơ bản học sinh cần phải nắm là: - Sản xuất phát triển dẫn đến nhu cầu về hương liệu, vàng bạc, thị trường cao. - Con đường giao lưu buôn bán qua Tây Á và Địa Trung Hải bị người Ả-rập độc chiếm. - Khoa học- kĩ thuật có những bước tiến quan trọng như kĩ thuật mới. 2.3.3.2. Đối với những cuộc phát kiến tiêu biểu. Giáo viên treo hoặc chiếu lược đồ Những cuộc phát kiến địa lí: Lược đồ: Các cuộc phát kiến địa lí [7] - Mục đích cần hướng đến là: Những cống hiến lớn lao của các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cho văn minh thế giới ở thế kỷ XV-XVI. - Nội dung cơ bản để khai thác. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước tiên phong trong các cuộc phát kiến địa lí. Sở dĩ như vậy, vì hai nước này đều có những hạm đội mạnh nhất châu Âu thời bấy giờ, với nhiều thủy thủ gan dạ và thông minh. Từ đầu thế kỉ XV trở đi, người Bồ Đào Nha bắt đầu đem hết sức lực ra khám phá vùng bờ biển Châu Phi, hầu như năm nào cũng có đoàn đi, nhưng đoàn chỉ đi một thời gian rồi quay trở về. Hoàng tử Hen-ri đã hai lần dẫn đoàn đi thám hiểm vào các năm 1445 và năm 1472. Tháng 8/1487, Bác-tơp-lơ-mi Đi-a-xơ (1450 – 1500) đã tiến hành thám hiểm vùng biển nam châu Phi, quá trình di chuyển đoàn thuyền của ông bị giông bão thổi bật xuống phía nam châu Phi, nhờ đó phát hiện ra mũi Hảo Vọng. Tại đây, Đia-a-xơ nhìn thấy biển Đông châu Phi. Các hoa tiêu của người Hồi giáo sẵn sàng dẫn đường cho ông tiến về phía tây Ấn Độ, nhưng các thủy thủ của ông nổi loạn buộc ông phải trở về Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, cuộc thám hiểm của Đia-a-xơ đã chuẩn bị mọi điều kiện cho sự thành công của Va-xcô đơ Ga-ma. Đó là đỉnh cao nhất trong hàng loạt phát hiện của các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha – hoàn thành việc tìm đường biển thông sang Ấn Độ. Lược đồ: Hành trình phát kiến địa lí của B. Đi-a-xơ [7] Tháng 7/1497, khi vừa mới tròn 28 tuổi, Va-xcô đơ Ga-ma đã tổ chức đoàn thám hiểm qui mô lớn với 4 tàu Ca-ra-ven và 168 thủy thủ rời cảng Li-xbon tiến xuống phía nam châu Phi, tiếp tục lộ trình của Đi-a-xơ trước đây. Khi đến Mũi Xanh thì bị chệch hướng sang phía Tây, tiến tới phía Đông của một châu lục khác mà đoàn không hề biết (châu Mĩ). Tuy vậy đoàn thám hiểm vẫn lập thương điếm (tại Bra-xin ngày nay), sau đó ông điều chỉnh hướng vượt qua được mũi Hảo Vọng ngược lên phía Bắc. Lược đồ: Hành trình phát kiến địa lí của Vaxcô Đơ Gama [7] Ngày 20/5/1498, trải qua nhiều khó khăn, họ đã cập bến Ca-li-cút (Ấn Độ). Giấc mơ phát hiện đường biển sang Ấn Độ như thần thoại cuối cùng đã được thực hiện. Từ Ca-li-cút, đoàn thám hiểm đã theo đường cũ trở về Bồ Đào Nha. Khi về, đoàn chỉ còn 55 thủy thủ, nhưng đầy ắp vàng, bạc châu báu, hương liệu quý. Sau đó, người Bồ Đào Nha đã chiếm giữ độc quyền con đường này 18 năm liền và tổ chức nhiều cuộc viễn chinh mới. Đồng thời với các cuộc thám hiểm của người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha cũng tiến hành nhiều cuộc thám hiểm lớn. Trái ngược với người Bồ Đào Nha thám hiểm vùng đất mới bằng cách đi xuống phía nam châu Phi, thì người Tây Ban Nha lại di chuyển theo hướng tây nam. Xuất phát từ giả thuyết trái đất hình cầu tròn, họ đặt mục tiêu hướng về phía tây để sang phương Đông giàu có. Tiêu biểu là cuộc hành trình của C.Cô-lôm-bô và Ma-gien-lan. Ngày 2/8/1492, C. Cô-lôm-bô (1451-1506) đã dẫn đầu đoàn thuỷ thủ 90 người với 3 chiếc tàu rời cảng Pa-lê-xơ (Tây Ban Nha) đi về hướng Tây. Sau hai tháng lênh đênh trên Đại Tây Dương gặp nhiều sóng to gió lớn, ngày 28/10/1892 ông đã đến một số đảo thuộc vùng biển Ca-ri-bê (châu Mĩ), nhưng ông tưởng đây là miền “Đông Ấn Độ”. Lược đồ: Hành trình phát kiến địa lí của C. Côlômbô [7] Quay trở về Tây Ban Nha ông được phong chức Thượng tướng hải quân, tổng đốc Ấn Độ. Cô-lôm-bô được coi là người đầu tiên phát hiện ra châu Mĩ, nhưng do tưởng lầm là Ấn Độ nên châu Mĩ ngày nay không mang tên ông mà mang tên một nhà thám hiểm khác. Ảnh minh họa: Cô-lôm-bô tuyên bố chủ quyền thế giới trên vùng đất mới [7] Sau những cuộc phát kiến địa lí của C. Cô-lôm-bô, người Tây Ban Nha vẫn không hài lòng với những gì mình thu được nên vẫn tiếp tục các cuộc hành trình thám hiểm. Ma-gien-lan (1480-1521), sau khi biết vùng đất mới mà Cô-lôm-bô phát hiện không phải là Ấn Độ nên ông tiếp tục cuộc hành trình đó. Ma-gien-lan là nhà hàng hải người Bồ Đào Nha, nhưng lại phục vụ trong vương triều Tây Ban Nha. Được sự giúp đỡ của vua Tây Ban Nha, ông tổ chức đoàn thám hiểm đi vòng quanh trái đất. Ngày 20/9/1519 Ma-gien-lan dẫn đầu đoàn thám hiểm gồm 5 chiếc tàu với 265 thủy thủ rời cảng Xan Lu-các, bắt đầu cuộc hành trình vượt Đại Tây Dương đầy mạo hiểm. Tháng 10/1519, đoàn tới được bờ biển Bra-xin, rồi men theo bờ biển phía đông Nam Mĩ tới vịnh Xan-ta Lu-xi-a (nay là thành phố Ri-ô đờ gia-ne rô). Do cuộc hành trình quá dài, lại thiếu lương thực nên nhiều thủy thủ nổi loạn đòi quay trở về, nhưng ông vẫn kiên quyết tiếp tục cuộc hành trình. Ông đã kết án treo cổ 40 thủy thủ vì nổi loạn và làm hoang mang những người khác. Khi đến cực nam châu Mĩ đoàn chỉ còn 4 tàu vì 1 tàu bỏ trốn. Sau khi vượt qua cực nam châu Mĩ (sau này được gọi là eo biển Ma-gien-lan) đoàn thám hiểm đến một đại dương mới. Tại đây, thấy gió lặng, sóng yên, khác hẳn với bão tố liên miên của vùng biển nam Mĩ, nên ông đặt là biển Thái Bình Dương. Tháng 4/1521, đoàn đến được Phi-líp-pin và đụng độ với thổ dân, Ma-gien-lan cùng 22 thủy thủ đã hi sinh. Hoan-xe-ba-xti-an Đơ En-ca-nô lên thay chỉ huy đoàn thám hiểm, lúc này chỉ còn 2 tàu với 113 thủy thủ. Tháng 11/1521, khi đoàn tới đảo Mô-lúc thì gặp bão lớn nên chỉ còn 1 tàu với 33 thủy thủ. Năm 1522, đoàn thám hiểm tiến về phía nam và tới Bru-nây, vòng qua nam In-đô-nê-xi-a vào Ấn Độ Dương vượt qua mũi Hảo Vọng, men theo bờ biển phía tây châu Phi về tới Tây Ban Nha ngày 8/9/1522, lúc này đoàn chỉ còn 18 thủy thủ với một tàu chở đầy hương liệu của phương Đông. Như vậy, cuộc hành trình vòng quanh trái đất lần đầu tiên được hoàn thành đã làm rạng rỡ tên tuổi của nhà thám hiểm Ma-gien-lan. Nó chứng minh một cách thuyết phục nhất về quả đất hình cầu tròn. “Ông đã tặng cho nhân loại những hiểu biết mới và chiến công đó của ông đã vượt lên tất cả mọi chiến công. Ông đã biến những gì mà hàng trăm thế hệ trước chỉ coi là giấc mơ thì nay đã thành hiện thực” [1]. - Phương pháp sử dụng: Lược đồ trên, nói về những cuộc phát kiến địa lí của những nhà thám hiểm nổi tiếng châu Âu cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI. Để học sinh phát huy được tính tích cực chủ động, giáo viên cần thực hiện tốt các bước sau: Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ, đồng thời giúp các em phân biệt những loại mũi tên chỉ từng cuộc hành trình của các nhà thám hiểm. Bước hai: giáo viên yêu cầu học sinh kết hợp với nội dung trong sách giáo khoa và lên bảng thuyết trình các cuộc phát kiến địa lí. Trong quá trình học sinh giới thiệu về các cuộc phát kiến địa lí giáo viên có thể gợi mở một số câu hỏi để cuốn hút học sinh lắng nghe và lĩnh hội kiến thức. Ví dụ: Tại sao cuộc hành trình đến được cực nam châu Phi của người Bồ Đào Nha lại diễn ra trong một thời gian dài như vậy? Tại sao người Tây Ban Nha lại chọn hướng đi sang phía tây Đại Tây Dương mà không đi theo con đường người Bồ Đào Nha đã đi?.... Bước ba: Sau khi học sinh đã thuyết trình xong giáo viên yêu cầu học sinh khác nhận xét bổ sung. Cuối cùng, giáo viên nhận xét, đồng thời để học sinh khắc sâu nội dung vừa học giáo viên yêu cầu học sinh nối cột A và B sao cho đúng A B Năm 1487 B. Đi-a-xơ Đi vòng quanh thế giới bằng đường biển Năm 1492 C. Cô-lôm-bô Đến được cực Nam của châu Phi Năm 1497 Va-xcô đơ Ga-ma Tìm ra châu Mĩ Năm 1519-1522 Ph. Ma-gien-lan Đến được Ca-li-cút của Ấn Độ Sau khi kết thúc nội dung trên, giáo viên đặt câu hỏi: Các cuộc phát kiến địa lí đã để lại những hệ quả gì? Khi học sinh trả lời xong giáo viên nhận xét và kết luận: 2.3.3.3. Đối với hệ quả của cuộc phát kiến địa lí: Sau khi đã học sinh thảo luận và trả lời giáo viên nhận xét và kết luận, các cuộc phát kiến địa lí đã để lại những hệ quả to lớn: + Đem lại hiểu biết mới về trái đất, về những con đường mới, dân tộc mới. Thị trường thế giới được mở rộng. (Giáo viên minh họa bằng lược đồ) Lược đồ: Thị trường thế giới được mở rộng [7] + Thúc đẩy nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến dẫn tới sự xác lập của chủ nghĩa tư bản. + Nảy sinh quá trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ. (Giáo viên minh họa bằng tranh ảnh) Ảnh minh họa: Cảnh buôn bán nô lệ [7] 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Để đánh giá hiệu quả của đề tài tôi chọn lớp 10A20, 10D20 năm học 2017-2018 làm lớp thực nghiệm. Sau các tiết dạy tôi có sử dụng phiếu điều tra về mức độ hứng thú và kết quả học tập của học sinh: + Kết quả phiếu điều tra về hứng thú học tập của học sinh: Năm học 2017-2018 Lớp Mức độ 10A20 10D20 Số lượng % Số lượng % Thích 23 56,09 22 55,00 Bình thường 12 29,26 13 32,50 Không thích 6 14,63 5 12,50 Tổng 41 100 40 100 + Phiếu điều tra kết quả học tập của học sinh: Em hãy nối cột A và B sao cho đúng? (Lưu ý: Nối đúng mỗi ý được 2,5 điểm, thời gian 5 phút) A B Năm 1487 B. Đi-a-xơ Đi vòng quanh thế giới bằng đường biển Năm 1492 C. Cô-lôm-bô Đến được cực Nam của châu Phi Năm 1497 Va-xcô đơ Ga-ma Tìm ra châu Mĩ Năm 1519-1522 Ph. Ma-gien-lan Đến được Ca-li-cút của Ấn Độ Kết quả thu được là: Năm học 2017-2018 Lớp Xếp loại 10A20 10D20 Số lượng % Số lượng % Giỏi 13 31,70 12 30,00 Khá 17 41,63 16 40,00 Trung bình 8 19,51 8 20,00 Yếu - kém 3 7,31 4 10,00 Tổng 41 100 40 100 Qua các bảng thống kê ta thấy, đã có sự thay đổi lớn về hứng thú cũng như kết quả học tập của học sinh. Trước khi áp dụng phương pháp sử dụng, khai thác kênh hình vào giảng dạy bài Tây Âu hậu kì Trung đại số học sinh có hứng thú học tập ở lớp 10A1 và 10A3 năm học 2016-2017 chỉ chiếm 15%, số không thích học chiếm tới 48,9%. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp sử dụng, khai thác kênh hình vào giảng dạy tại lớp 10A20 và 10D20 số học sinh hứng thú với môn học tăng lên rõ rệt, chiếm tỉ lệ trên 55%, số không thích học cũng giảm xuống còn 13,5%. Mặt khác, trong giờ học khi dạy bằng phương pháp mới này học sinh cũng học tích cực, chủ động hơn, các em hăng hái tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài làm cho giờ học lịch sử trở nên sôi nổi hơn. Vì vậy kết quả học tập của học sinh ở cả 2 lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác nhau rõ rệt. Ở lớp 10A1 và 10A3 khi chưa áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy thì số học sinh khá, giỏi chỉ chiếm 33%; yếu, kém chiếm tỉ lệ hơn 24%. Nhưng khi áp dụng phương pháp mới vào trong quá trình giảng dạy ở lớp 10A20 và 10D20 năm học 2017-2018 số học sinh khá, giỏi tăng lên, chiếm hơn 71%, đặc biệt số học sinh xếp loại yếu, kém giảm mạnh chỉ còn 8,64%. Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc khai thác kênh hình trong dạy học là rất cần thiết, đặc biệt đối với môn lịch sử. Nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao, đây cũng là một trong những nội dung thể hiện sự đổi mới phương pháp dạy học, làm cho kết quả học tập bộ môn không ngừng được nâng cao. Điều đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy học là một định hướng đúng đắn của Đảng và nhà nước. 3. Kết luận và kiến nghị 3.1. Kết luận. Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học lịch sử nói riêng là vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi nhận thấy người giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề, phải thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn, phải có năng lực sư phạm và biết kết hợp khéo léo các phương pháp, phương tiện nhằm tổ chức tốt việc nhận thức cho học sinh. Thực tiễn chứng minh rằng, học sinh gắn việc yêu thích môn lịch sử với phương pháp dạy của giáo viên. Với mỗi giáo viên lịch sử, việc kết hợp kĩ năng khai thác kênh hình sách giáo khoa với ứng dụng CNTT phục vụ cho giảng dạy, sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Điều đó, không những hoàn thiện kĩ năng sư phạm, nâng cao được trình độ chuyên môn của người thầy mà còn phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập bộ môn. 3.2. Kiến nghị. + Cần có những chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên về cách khai thác và sử dụng kênh hình. + Trong thời gian tới khi biên soạn sách giáo khoa lịch sử nên bổ sung thêm các loại kênh hình và có sách hướng dẫn. + Nhà nước cần đầu tư xây dựng thêm các phòng học bộ môn phù hợp với đặc trưng bộ môn lịch sử. Xác nhận của thủ trưởng đơn vị ....................................................... ....................................................... ....................................................... ....................................................... Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết, không sao chép nội dung của người khác. Người thực hiện Lê Trọng Thế Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Thị Côi - Hướng dẫn sử dụng kênh hình - NXB Đại Học Sư Phạm - Hà Nội - 2013. 2. Đặng Văn Đức - Lí luận dạy học Địa lí - NXB Đại Học Sư Phạm, Hà Nội. 3. Phan Ngọc Liên - Lịch sử lớp 10 nâng cao - NXB Giáo dục - 2011. 4. Phan Ngọc Liên - Lịch sử lớp 10 - NXB Giáo dục - 2006. 5. Bộ giáo dục và đào tạo - Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học phổ thông - NXB Đại Học Sư Phạm - Hà Nội - 2007. 6. Quyết định số 41/2000/QĐ/BGD&ĐT ngày 24/3/2000 của BGD & ĐT. 7. Nguồn một số trang Web trên Internet.
File đính kèm:
skkn_mot_so_giai_phap_trong_viec_su_dung_khai_thac_kenh_hinh.doc

