SKKN Một số phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX (SGK Lịch sử 11 - Chương trình cơ bản)

Trong dạy học lịch sử ở bậc THPT, việc hình thành tri thức, giáo dục tư tưởng tình cảm và rèn luyện các kĩ năng cho HS qua dạy học các nhân vật lịch sử đóng vai trò quan trọng. Dạy học nhân vật lịch sử không chỉ là truyền đạt kiến thức mà còn giúp HS nhận thức một cách sâu sắc vai trò của nhân vật liên quan đến sự kiện và mối quan hệ của nhân vật với hoàn cảnh lịch sử. Đây là phương pháp cần thiết giúp cho HS lĩnh hội kiến thức đầy đủ và tích cực.

Trong những năm gần đây, chất lượng dạy và học môn Lịch sử chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiến xã hội, nhiều học sinh còn rất mơ hồ về các nhân vật lịch sử, các anh hùng dân tộc dẫn đến chưa nhận thức đúng những cống hiến của các nhân vật lịch sử đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại. Nguyên nhân của tình trạng này là do trong thực tiễn giảng dạy một số GV khi giảng dạy các nhân vật lịch sử thường hay mắc phải những thiếu sót như “thần thánh hóa” hoặc sa đà vào các chi tiết vụn vặt, ly kì về đời tư của nhân vật, không coi trọng việc hiểu đúng và đánh giá khoa học về nhân vật lịch sử là một yêu cầu quan trọng của việc nắm kiến thức lịch sử của HS. Do vậy, sự nhận thức lịch sử của HS không sâu sắc, sai lệch và dĩ nhiên ảnh hưởng đến thái độ, tư tưởng, tình cảm và hành động của các em trong cuộc sống.

doc 15 trang SKKN Lịch Sử 22/10/2025 30
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX (SGK Lịch sử 11 - Chương trình cơ bản)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX (SGK Lịch sử 11 - Chương trình cơ bản)

SKKN Một số phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX (SGK Lịch sử 11 -  Chương trình cơ bản)
u biểu nhất là trận Vụ Quang (1894). Ở trận này, ông cho nghĩa quân lên tận nguồn sông chặt gỗ to làm kè chặn nước và đẵn nhiều khúc gỗ thả sẵn trên nguồn. Giặc đến, nghĩa quân để cho chúng yên ổn đi qua một khúc sông cạn nước, chờ lúc giặc đến giữa dòng, ông ra lệnh phá kè trên nguồn. Nước bị dồn ứ từ lâu, đến lúc được tháo, ào ào chảy xuống, kéo theo những khúc gỗ chặt để sẵn, vun vút lao xuống. Quân địch phần bị nước cuốn bất ngờ, phần bị gỗ to lao vào người, phần bị nghĩa quân mai phục hai bên bờ bắn ra nên bị chết rất nhiều.
- Xây dựng một hệ thống căn cứ chống Pháp lớn. Chế tạo được vũ khí hiện đại chống Pháp.
- Được sự giúp đỡ của nhân dân các tỉnh Bắc Trung Kỳ.
- Giành được nhiều chiến thắng điển hình là trận Vụ Quang.
- Cuối tháng 12/1895, Phan Đình Phùng bị thương và tạ thế tại núi Quạt (Hương Khê). Thực dân Pháp đã cho người quật mộ ông và đốt xác lấy tro nhồi thuốc súng bắn xuống sông La. Chỉ điều này thôi cũng đủ minh chứng cho tầm vóc lớn của cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng tổ chức và lãnh đạo và tinh thần chiến đấu xả thân vì nước của Phan Đình Phùng. Không chỉ nhân dân tôn sùng Phan Đình Phùng, mà kẻ thù cũng tỏ lòng khâm phục kiêng nể. Đại úy Getxơlanh, chỉ huy quân Pháp, đàn áp khởi nghĩa Hương Khuê, phải khâm phục: Quan Đình - nguyên Phan Đình Phùng có tài điều khiển việc quân binh, biết luyện tập sĩ tốt theo phong thái Tây, áo mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874, nhưng súng Tây là súng của người quan Đình nguyên đúc ra thật nhiều mà máy móc cũng hệt như súng Pháp, chỉ vì nòng súng không có xẻ rãnh nên đạn không đi xa được.
* Cao Thắng(1864 - 1893):
- Trợ thủ đắc lực của Phan Đình Phùng, xuất thân từ quần chúng nhân dân lao động.
- Cao Thắng người xã Tuấn Lễ (nay là Sơn Lễ), huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, nhưng ham học nên giỏi cả văn lẫn võ. Năm 20 tuổi, Cao Thắng theo nghĩa quân của Trần Quang Cán chống giặc tại quê nhà. Khi Phan Đình Phùng dấy binh, Cao Thắng cùng em là Cao Nữu đem binh lực của mình về với Phan Đình Phùng và nhanh chóng trở thành cánh tay phải của Phan Đình Phùng.
- Năm 1886 khi Phan Đình Phùng ra Bắc, Cao Thắng được giao nhiệm vụ chỉ huy nghĩa quân, đặc biệt là tổ chức rèn đúc vũ khí, sản xuất đạn dược. Ông đã đứng ra tổ chức rèn đúc vũ khí, đặc biệt là đã làm được súng trường kiểu 1874 của Pháp. Hàng trăm thợ rèn ở lại làng Trung Lương và Vân Chàng (Đức Thọ, Hà Tĩnh) được Cao Thắng huy động lên đồn trại để đúc súng. Những khẩu súng trường tự chế tạo này đã gây cho Pháp nỗi khiếp đảm và nhiều tướng tá Pháp phải khâm phục. 
- Quân Pháp dựa vào sức mạnh quân sự, tăng cường bao vây, đánh phá hòng tiêu diệt nhanh chóng nghĩa quân Hương Khê. Để phá vỡ thế bao vây của địch, Cao Thắng quyết định đánh vào tỉnh lị Nghệ An. Ngày 21/11/1893 trong trận tấn công đồn Nu (Thanh Chương – Nghệ An) trên đường hành quân về Vinh, Cao Thắng đã trúng đạn và hi sinh năm 29 tuổi, gây tổn thất lớn cho nghĩa quân.
- Cao Thắng là biểu tượng cho sức sáng tạo, sự thông minh của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Ông được coi là ông tổ của ngành quân giới nước ta.
* Hoàng Hoa Thám (1858-1913): 
- Hoàng Hoa Thám, không phải văn thân cũng không phải là tù trưởng, hào trưởng mà là người nông dân nghèo. Quê gốc ở Hưng Yên, sau vì nghèo túng quá nên di chuyển lên Bắc Giang đi ở cho những nhà điền chủ trong vùng. Tên trước kia là Trương Văn Thám (sau này khởi nghĩa gọi là Hoàng Hoa Thám). Hoàng Hoa Thám có biệt tài quân sự ngay từ khi còn trẻ, lại là người trung thực kiên nghị nên được Hoàng Đình Kính yêu mến nhận làm con nuôi. Hoàng Hoa Thám đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế từ 1884 – 1913.
- Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
- Tổ chức lực lượng, xây dựng căn cứ, chiến đấu và thương thuyết với địch, duy trì cuộc đấu tranh trong khoảng 30 năm.
- Ngày 10/2/1913, Đề Thám bị giết hại tại khu rừng cách chợ Gồ khoảng 2km. Việc Hoàng Hoa Thám chết đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào nông dân Yên Thế.
3.3. Một số biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài " Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối thể kỉ XIX":
 	 3.3.1. Hình thành mối quan hệ giữa nhân vật lịch sử với không gian và thời gian:
Một sự kiện lịch sử được cấu thành bởi ba yếu tố: thời gian, không gian, con người. Vì vậy, con người hoạt động luôn ở trong một không gian và thời gian cụ thể. Hình thành mối quan hệ giữa nhân vật và thời gian, không gian là đặt nhân vật trong bối cảnh họ sống và hoạt động để tạo biểu tượng cụ thể về từng nhân vật, tránh hiện tượng nhầm lẫn và “hiện đại hóa” nhân vật lịch sử. Tạo được biểu tượng về không gian và thời gian nhân vật hoạt động một cách sinh động cũng là cách để giảng dạy nhân vật đạt hiệu quả. Nhớ và hiểu về con người không thể tách rời bối cảnh họ sống và hoạt động. 
Thứ nhất, là hình thành mối liên hệ giữa nhân vật với thời gian: Nhân vật liên hệ với thời gian bởi năm sinh, năm mất và khoảng thời gian nhân vật hoạt động gắn với các sự kiện lịch sử xác định. Điều đó có nghĩa là trong khi tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử thì giáo viên chú ý xác định liên hệ giữa yếu tố con người với thời gian để hình thành hình ảnh về nhân vật toàn diện và hệ thống về họ.
Nhân vật lịch sử là con người có vai trò quan trọng đối với một thời kì lịch sử nhất định, hoạt động của nhân vật thường liên quan đến những sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn, vì thế GV thông qua việc khắc sâu thời gian diễn ra sự kiện mà nêu lên mối liên hệ với hoạt động của nhân vật. Quan hệ giữa nhân vật về mặt thời gian có thể là cùng một thời gian có nhiều nhân vật hoạt động trong cả giai đoạn lịch sử, hoặc các nhân vật hoạt động với mục đích như nhau, cùng tính chất với nhau nhưng trong những khoảng thời gian khác nhau.
Thứ hai, là hình thành mối liên hệ giữa nhân vật với không gian. Tạo biểu tượng về không gian trong dạy học nhân vật cần xác định rõ các đặc điểm cụ thể về địa hình, truyền thống dân cư, đặc điểm kinh tế xã hội nơi mà nhân vật hoạt động. Mối quan hệ giữa nhân vật và không gian rất phong phú đa dạng, có thể là trong một thời gian có nhiều nhân vật hoạt động ở những không gian khác nhau hoặc một nhân vật nhưng hoạt động ở nhiều không gian và qua một chuỗi các hoạt động tạo nên biểu tượng hoàn chỉnh về nhân vật. Như cùng trong phong trào Cần vương diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa khắp nhơi trong nước, lớn nhất là các cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Ba Đình, Hương Khê (dùng bản đồ để chỉ rõ điều này và giải thích về quy mô, tính nhân dân của phong trào).
GV cũng hướng dẫn HS nhận biết về địa bàn hoạt động của các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần vương với phong trào nông dân Yên Thế.
Mỗi nhân vật hoạt động trong một không gian cụ thể khác nhau với những nét đặc trưng khác nhau rõ ràng không thể nhầm lẫn được. Cũng là ở vùng rừng núi nhưng căn cứ của Hoàng Hoa Thám khác với căn cứ Hương Khê của Phan Đình Phùng, cũng là căn cứ ở cùng đồng bằng nhưng cộng sự mà Phạm Bành – Đinh Công Tráng xây dựng khác Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật. Như vậy, khi tạo biểu tượng về không gian có liên quan đến nhân vật thì hình ảnh nhân vật được hiện lên rõ với trung tâm điểm gắn liền với hoạt động của họ.
 3.3.2. Sử dụng nguồn tài liệu có liên quan về nhân vật trong tạo biểu tượng nhân vật lịch sử:
Sử dụng tài liệu về tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử cần khai thác những kiến thức về hoàn cảnh xuất thân, quá trình hoạt động của bản thân. Những điều này được chọn lựa một cách khoa học, sống động để HS có biểu tượng hoàn chỉnh về một nhân vật lịch sử.
Muốn sử dụng tài liệu của nhân vật có hiệu quả, điều cốt yếu trước tiên là phải nắm được cuộc đời và hoạt động của nhân vật, khai thác những điểm nổi bật đặc sắc nhất, liên quan đến sự kiện lớn của dân tộc, cách mạng. Vì vậy, khi sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học cần chú ý yêu cầu cơ bản là phù hợp với nội dung bài học, không được lan man. 
Sử dụng nhận xét, đánh giá về nhân vật trong dạy học lịch sử là một biện pháp cần thiết để hiểu sâu sắc hơn con người và xã hội đương thời. Khi tạo biểu tượng về Phan Đình Phùng cần khai thác, minh chứng lời nhận xét Đại úy Getxơlanh - chỉ huy quân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê phải khâm phục:
Quan Đình nguyên Phan Đình Phùng có tài điều khiển việc quân binh, biết luyện tập sĩ tốt theo phong thái Tây, áo quần mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874, nhưng súng tây là súng của người quan Đình nguyên đúc ra thật nhiều mà máy móc cũng hệt như súng Pháp, chỉ vì nòng súng không xẻ rãnh, cho nên đạn không đi xa được.
 Hay khi tạo biểu tượng về Hoàng Hoa Tham cần khai thác, minh chứng lời ca tụng Hoàng Hoa Thám, “Con hùm xám Yên Thế” của Hồ Chí Minh:
Giang san độc lập một miền.
Ông Hoàng Hoa Thám đất yên tung hoành
 3.3.3. Kết hợp sử dụng tranh ảnh, chân dung nhân vật lịch sử kết hợp với lời nói sinh động nhằm tạo biểu tượng nhân vật lịch sử:
Lời nói của GV trong tạo biểu tượng nhân vật lịch sử cho HS THPT có thể được sử dụng trong các trường hợp sau:
Thứ nhất: giới thiệu bài mới nhằm tạo cho HS hứng thú ban đầu, chuẩn bị tâm thế tập trung vào bài học. Với phần mở đầu, GV phải diễn đạt ngắn gọn, giàu tính khái quát và gợi cảm xúc, khêu gợi hứng thú, hướng tâm trí các em vào việc tìm sự kiện, nhân vật sắp được học. 
Khi dạy học bài 21. “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”, GV có thể mở đầu: Năm 1884 sau hiệp ước Patơnốt thực dân Pháp đã đặt được ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Tuy vậy, trên thực tế chúng mới chỉ khuất phục được bộ phận phong kiến đầu hàng, còn đông đảo quần chúng nhân dân vẫn nuôi trí chờ thời, sẵn sàng đứng lên chống xâm lược. Để hiểu được phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỉ XIX diễn ra như thế nào chúng ta cùng học bài 21.
 Thứ hai: GV mô tả, tường thuật, kể chuyện về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử. Trong trường hợp này, lời nói của GV cần đạt những yêu cầu sau:
- Rõ ràng, ngắn gọn, mang tính thông báo khi trích dẫn tài liệu từ các văn bản, hoặc SGK.
- Sinh động giàu hình ảnh khi kể chuyện minh họa làm nổi bật nội dung cơ bản của bài học, hoặc phục vụ bổ ích, gắn với thực tế chung quanh 
- Sử dụng tranh ảnh một cách phù hợp có ý nghĩa. Hiệu quả của tranh ảnh lịch sử được nâng cao rất nhiều nếu chúng được xuất hiện đúng vào lúc mà nội dung, phương pháp của bài giảng cần đến tranh ảnh. Cần đưa tranh ảnh theo trình tự bài giảng, tránh việc trưng bày hàng loạt tranh ảnh khiến cho HS không biết bức tranh, hình ảnh nào là quan trọng nhất. 
Khi dạy bài 21. “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”, mục 2 “ Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần vương và phong trào đấu tranh tự vệ cuối thế kỉ XIX”, GV có thể kể đôi nét về Phan Đình Phùng cùng cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo: “Phan Đình Phùng người làng Đông Thái (này là Đức Phong) huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Đình nguyên Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1877) đời Tự Đức. Lúc đầu ông được bổ làm tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình), rồi về kinh sung vào Viện Đô sát giữ chức Ngự sử. Suốt 10 năm (1885 – 1895), cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã giao chiến với Pháp nhiều trận gây cho đối phương nhiều tổn thất nặng nề, tiêu biểu nhất là trận Vụ Quang (1894). Mặc dù nghĩa quân do ông tổ chức, chiến đấu ngoan cường dũng cảm, nhưng cuối cùng trước sự bao vây của thực dân Pháp với vũ khí hiện đại, lực lượng nghĩa quân đã bị đánh bại. Như vậy, GV có thể giúp HS có những hiểu biết cơ bản về Phan Đình Phùng cùng cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo.
Thứ ba: GV tổng kết, khái quát nhằm khắc sâu biểu tượng. Lời nói phải cô đọng, súc tích với ngữ điệu trầm lắng, có sức truyền cảm như lời kết thúc một câu chuyện lịch sử và mở ra những cảm xúc cho mỗi HS.
Qua lời nói của GV, mỗi nhân vật hiện lên với những hình ảnh khác nhau làm cho HS dễ dàng phân biệt nhận diện được họ. Ví như, qua đoạn miêu tả chân dung vua Hàm Nghi, GV làm hiện lên không chỉ hình dáng bên ngoài giản dị, đời thường mà còn nêu bật khí phách của ông. Ấn tượng đẹp về vua Hàm Nghi lưu lại trong HS không những là thái độ khâm phục, quý mến mà từ đó nhận thức được phong trào Cần vương chống Pháp mà vua Hàm Nghi là một nhân vật tiêu biểu.
 khi dạy về Hoàng Hoa Thám, nếu chỉ nêu tên nhân vật gắn với hoạt động chính là phong trào nông dân Yên Thế thì hình ảnh về nhân vật trong ký ức của HS rất mờ nhạt, không cụ thể bằng khi GV sử dụng các chi tiết nổi bật về hình dáng, tính cách để khắc họa về ông: “Với thân hình vạm vỡ, tóc thường cắt ngắn, mắt một mí, rất giản dị, thuần phác và chẳng bao giờ cởi mở hết lòng với ai nhưng sự can đảm và tài năng chiến đấu của ông thì thực sự là một chiến binh xuất sắc. Nhân dân coi ông như một nhân vật thần kỳ, ngay cả kẻ thù cũng ca ngợi Để Thám rất can đảm, ưa hành động, bản năng chiến trận của ông thật kỳ diệu”.
4. Hiệu quả:
Từ thực tiễn giảng dạy trong những năm vừa qua, tôi nhận thấy việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy các bài học lịch sử đã từng bước nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn.
III. KẾT LUẬN
Việc  xây dựng  nhân vật lịch sử trong bài giảng chỉ là một khía cạnh trong toàn bộ nội dung bài giảng lịch sử, góp phần kích thích tạo nên sự tích cực, chủ động sáng tạo trong hoạt động dạy- học thông qua đó hình thành cho các em thái độ, tư tưởng tình cảm đóng góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách.
Việc tạo biểu tượng nhân vật trong chương trình lịch sử ở trường phổ thông có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Nó góp phần giúp các em học sinh hiểu sâu sắc hơn lịch sử (dân tộc và thế giới), bồi dưỡng những quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa cá nhân và quần chúng, giáo dục lòng biết ơn, sự noi gương tổ tiên và phát huy tính tích cực trong tư duy và hành động.
Muốn nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông, một vấn đề mà giáo viên cần nhận thức đúng là dạy học các nhân vật lịch sử. Bởi vì, những kiến thức về nhân vật lịch sử là một loại kiến thức cơ bản, quan trọng của khóa trình lịch sử. Để tạo biểu tượng nhân vật cho HS cần kết hợp sử dụng các biện pháp sư phạm theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, năng động, chủ động, sáng tạo của HS. 
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Nguyễn Đình Bảy
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Nguyễn Thị Hà

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_phuong_phap_khac_hoa_bieu_tuong_nhan_vat_lich_su.doc