SKKN Nâng cao hiệu quả giảng dạy bài Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến XV bằng phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử (SGK Lịch sử 10 - Chương trình cơ bản)

Dạy và học bộ môn lịch sử được xem là một nội dung quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, tình cảm cho học sinh trong nhà trường hiện nay. Trong dạy học lịch sử ở bậc THPT, việc hình thành tri thức, giáo dục tư tưởng tình cảm và rèn luyện các kĩ năng cho HS qua dạy học các nhân vật lịch sử đóng vai trò quan trọng. Dạy học nhân vật lịch sử không chỉ là truyền đạt kiến thức mà còn giúp HS nhận thức một cách sâu sắc vai trò của nhân vật liên quan đến sự kiện và mối quan hệ của nhân vật với hoàn cảnh lịch sử. Việc tạo biểu tượng chân thực về các nhân vật sẽ giúp học sinh hình dung được bức tranh lịch sử sinh động của dân tộc trong từng thời kì lịch sử. Trên cơ sở đó, hình thành ở các em thái độ khâm phục, biết ơn đối với các anh hùng dân tộc đó hi sinh cho cuộc sống độc lập tự do hôm nay. Vì vậy, tạo biểu tượng nhân vật lịch sử là phương pháp cần thiết giúp cho HS lĩnh hội kiến thức đầy đủ và tích cực.
doc 15 trang SKKN Lịch Sử 02/08/2025 210
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả giảng dạy bài Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến XV bằng phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử (SGK Lịch sử 10 - Chương trình cơ bản)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Nâng cao hiệu quả giảng dạy bài Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến XV bằng phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử (SGK Lịch sử 10 - Chương trình cơ bản)

SKKN Nâng cao hiệu quả giảng dạy bài Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến XV bằng phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử (SGK Lịch sử 10 - Chương trình cơ bản)
1069, để dẹp yên biên giới phía Nam, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, vua Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt chủ trương phát quân đi đánh Chiêm Thành. Quân đội do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đã thu được thắng lợi to lớn, bắt sống được chúa nước Chiêm là Chế Củ. Vì có công lớn lên Lý Thường Kiệt được thăng chức Thái Phó, tước khai Quốc công
- Đầu năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi đó là vua Lý Nhân Tông, Hoàng Thái hậu Thượng Dương và sau đó là Linh Nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan buông rèm nghe chính. Lý Thường Kiệt cầm giữ binh quyền phò giúp vua nhỏ tuổi.
Để lo đối phó với âm mưu xâm lược của quân Tống, Lý Thường Kiệt tìm cách ổn định tình hình trong nước, đặc biệt là củng cố sự đoàn kết trong nội bộ triều đình. Ông cho mời Lý Đạo Thành trở lại triều chính giữ chức Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự, trông coi việc chính trị và nội trị.
- Cuối năm 1076 đầu năm 1077, muốn trả thù nước Đại Việt, triều đình nhà Tống sai Quách Quỳ xuất quân và phối hợp cùng với quân Chiêm Thành và Chân Lạp sang đánh nước Đại Việt. Quân và dân Đại Việt dưới quyền chỉ huy của Lý Thường kiệt đã kiên cường chiến đấu, kìm chân quân xâm lược Tống hàng tháng trước trận tuyến phòng thủ sông Cầu. Quân Tống bị chặn lại ở sông Như Nguyệt (sông Cầu), bị tiêu hao sinh lực, giảm sút tinh thần rồi sa vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Quân Tống đành phải đem quân về đóng ở sông Phú Lương (khúc sông Cầu từ Như Nguyệt trở lên, thời Lý gọi là sông Phú Lương). Lý Thường Kiệt đem binh thuyền đến chặn không cho sang sông, nhưng quân đội của Quách Quỳ dùng máy gỗ bắn đá vào thuyền của quân ta. Thấy quân Tống hăng hái quá, Lý Thường Kiệt e quân ta sẽ ngã lòng lền đặt ra một bài thơ:“Nam quốc sơn hà. Bài thơ xuất hiện vào lúc gay go nhất của cuộc chiến, đã cổ vũ tinh thần cho quân ta không ngại gian khổ mà chiến đấu, làm cho quân Tống không thể tiến lên được.
- Để đỡ hao tổn xương máu của cả hai dân tộc, Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng một cuộc giảng hòa để quân Tống rút quân về nước. Với chiến thắng đó, độc lập chủ quyền lãnh thổ quốc gia Đại Việt được giữ vững, nhân dân được sống thanh bình. Chiến thắng của Lý Thường Kiệt năm 1077 là sự mở đầu cho đường lối kết hợp vừa đánh, vừa đàm để kết thúc chiến tranh trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam.
- Tháng 6 năm 1105, Lý Thường Kiệt qua đời. Sau khi ông mất, người dân ở cả trấn Thanh Hóa và kinh thành Thăng Long đều lập đền thờ ông làm phúc thần, hàng năm nhân dân vẫn thành kính thắp hương để tưởng nhớ ơn đức của ông
* Trần Quốc Tuấn (1228-1300):
Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Thuở nhỏ, có người đã khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn, ông tỏ ra một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. 
        Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hoà hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hoà hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn.
Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt chỉ chống gậy không mỗi khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan, yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Ông là một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua vì nước.
Năm 1258, Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh chặn quân Mông Cổ ở Hưng Hoá. 
Năm 1284, khi quân Nguyên - Mông chuẩn bị sang xâm lược Đại Việt  lần thứ II, Trần Quốc Tuấn tổ chức duyệt quân ở Đông Bộ Đầu, đọc “Hịch tướng sĩ”, tổ chức rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng.
Cuối tháng 2 năm 1285, quân Nguyên – Mông vào Thăng Long, vua Trần lo ngại ướm hỏi, Trần Quốc Tuấn khảng khái thưa: “Nếu bệ hạ muốn hàng, trước hết xin hãy chém đầu thần”.
Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn cho quân Trần tổng phản công và trực tiếp chỉ huy đánh thắng trận đầu ở A Lỗ; liên tiếp thắng lớn trong các trận: Hàm Tử, Chương Dương và Vạn Kiếp, đánh bại cuộc xâm lược lần thứ II của Nguyên – Mông.
Năm 1287, trước tình thế quân Nguyên – Mông chuẩn bị xâm lược Đại Việt lần III, vua Trần hỏi về thế địch, Trần Quốc Tuấn thưa: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Khi triều Trần muốn tuyển mộ thêm quân, Trần Quốc Tuấn nêu nguyên tắc “Quân cần tinh, không cần nhiều” và chính mình rèn quân theo nguyên tắc đó.
Tháng 1 năm 1288, quân Trần đánh thắng trận Vân Đồn.
Tháng 4 năm 1288, thắng lớn trong trận Bạch Đằng và trận phục kích ở ải Nội Bàng (Bắc Giang), tiêu diệt hàng vạn quân địch, đánh bại ý đồ xâm lược của quân Nguyên. Được vua Trần phong: thái sư thượng phụ thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Hai tháng trước khi mất, Vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm có hỏi: Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?. Ông đã trăng trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước: "Thời binh phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước". 
Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tí, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc Đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. 
* Lê Lợi:
Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm Ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". Ông là con út của Lê Khoáng và Trịnh Thị Ngọc Hương (anh lớn của ông tên Học, anh thứ là Trư). Ông nối nghiệp cha làm chúa trại Lam Sơn. Khi quân Minh chiếm đất nước, ông nuôi chí lớn đánh đuổi xâm lăng. Quân nhà Minh nghe tiếng ông, dụ cho làm quan, ông không chịu khuất. Ông nói: "Làm trai nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người?". 
Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.
Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.
Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.
Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã có những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài.
Năm 1428, lên ngôi vua, năm sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách. Đấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một nhà ngoại giao xuất sắc thời Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng cố, giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trước, điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. 
Lê Lợi trong 5 năm làm vua, có những công lao to lớn. Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp. "
3.4.2. Một số biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài "Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X - XV".
Hình thành mối quan hệ giữa nhân vật lịch sử với không gian và thời gian: hình thành mối quan hệ giữa nhân vật và thời gian, không gian là đặt nhân vật trong bối cảnh họ sống và hoạt động để tạo biểu tượng cụ thể về từng nhân vật, tránh hiện tượng nhầm lẫn và “hiện đại hóa” nhân vật lịch sử. Tạo được biểu tượng về không gian và thời gian nhân vật hoạt động một cách sinh động cũng là cách để giảng dạy nhân vật đạt hiệu quả. Nhớ và hiểu về con người không thể tách rời bối cảnh họ sống và hoạt động. 
Thứ nhất, là hình thành mối liên hệ giữa nhân vật với thời gian: Nhân vật liên hệ với thời gian bởi năm sinh, năm mất và khoảng thời gian nhân vật hoạt động gắn với các sự kiện lịch sử xác định. Điều đó có nghĩa là trong khi tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử thì giáo viên chú ý xác định liên hệ giữa yếu tố con người với thời gian để hình thành hình ảnh về nhân vật toàn diện và hệ thống về họ.
Thứ hai, là hình thành mối liên hệ giữa nhân vật với không gian. Tạo biểu tượng về không gian trong dạy học nhân vật cần xác định rõ các đặc điểm cụ thể về địa hình, truyền thống dân cư, đặc điểm kinh tế xã hội nơi mà nhân vật hoạt động. Mối quan hệ giữa nhân vật và không gian rất phong phú đa dạng, có thể là trong một thời gian có nhiều nhân vật hoạt động ở những không gian khác nhau hoặc một nhân vật nhưng hoạt động ở nhiều không gian và qua một chuỗi các hoạt động tạo nên biểu tượng hoàn chỉnh về nhân vật. 
Sử dụng nguồn tài liệu có liên quan về nhân vật trong tạo biểu tượng nhân vật lịch sử: sử dụng tài liệu về tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử cần khai thác những kiến thức về hoàn cảnh xuất thân, quá trình hoạt động của bản thân. Những điều này được chọn lựa một cách khoa học, sống động để HS có biểu tượng hoàn chỉnh về một nhân vật lịch sử.
Muốn sử dụng tài liệu của nhân vật có hiệu quả, điều cốt yếu trước tiên là phải nắm được cuộc đời và hoạt động của nhân vật, khai thác những điểm nổi bật đặc sắc nhất, liên quan đến sự kiện lớn của dân tộc, cách mạng. Vì vậy, khi sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học cần chú ý yêu cầu cơ bản là phù hợp với nội dung bài học, không được lan man. 
Kết hợp sử dụng tranh ảnh, chân dung nhân vật lịch sử kết hợp với lời nói sinh động nhằm tạo biểu tượng nhân vật lịch sử: Lời nói của GV trong tạo biểu tượng nhân vật lịch sử cho HS THPT có thể được sử dụng trong các trường hợp như giới thiệu bài mới nhằm tạo cho HS hứng thú ban đầu, chuẩn bị tâm thế tập trung vào bài học; khi giáo viên mô tả, chuyện về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử; khi GV tổng kết, khái quát nhằm khắc sâu biểu tượng. Lời nói phải cô đọng, súc tích với ngữ điệu trầm lắng, có sức truyền cảm như lời kết thúc một câu chuyện lịch sử và mở ra những cảm xúc cho mỗi HS.
4. Hiệu quả:
Từ thực tiễn giảng dạy trong những năm vừa qua, tôi nhận thấy việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy các bài học lịch sử đã từng bước nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn.
III. KẾT LUẬN
Việc  tìm hiểu và khắc hoạ nhân vật lịch sử trong bài giảng chỉ là một khía cạnh trong toàn bộ nội dung bài giảng lịch sử, góp phần kích thích tạo nên sự tích cực, chủ động sáng tạo trong hoạt động dạy- học thông qua đó hình thành cho các em thái độ, tư tưởng tình cảm đóng góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách.
Việc tạo biểu tượng nhân vật trong chương trình lịch sử ở trường phổ thông có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Nó góp phần giúp các em học sinh hiểu sâu sắc hơn lịch sử (dân tộc và thế giới), bồi dưỡng những quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa cá nhân và quần chúng, giáo dục lòng biết ơn, sự noi gương tổ tiên và phát huy tính tích cực trong tư duy và hành động.
Muốn nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông, một vấn đề mà giáo viên cần nhận thức đúng là dạy học các nhân vật lịch sử. Bởi vì, những kiến thức về nhân vật lịch sử là một loại kiến thức cơ bản, quan trọng của khóa trình lịch sử. Để tạo biểu tượng nhân vật cho HS cần kết hợp sử dụng các biện pháp sư phạm theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, năng động, chủ động, sáng tạo của HS. 
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
PHÓ HIỆU TRƯỞNG
Lê Duy Thiện
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Hà

File đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_hieu_qua_giang_day_bai_nhung_cuoc_khang_chien.doc