SKKN Sử dụng các tài liệu ngoài sách giáo khoa để Dạy - Học lịch sử địa phương qua Chuyên đề “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa quần thể di tích lịch sử thành nhà Hồ (1400-1407)”- Tiết 51 – lớp 10
Có thể nói trong xu thế hội nhập với thế giới hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa, giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho thế hệ trẻ đang là vấn đề rất được chú trọng. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi bàn về công tác giáo dục đã chỉ rõ, phải “lựa chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc; ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ đất nước”. Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ của Lịch sử dân tộc, bất cứ một sự kiện nào của lịch sử dân tộc đều diễn ra ở một địa phương cụ thể với thời gian, không gian nhất định. Tùy quy mô, tính chất phản ánh mà sự kiện ảnh hưởng đến phạm vi của từng địa phương, cả nước và thậm chí mang tầm thế giới. Tri thức Lịch sử địa phương là một bộ phận hợp thành, là một biểu hiện cụ thể và phong phú của tri thức Lịch sử dân tộc. Nó chứng minh sự phát triển hợp quy luật của mỗi địa phương trong sự phát triển chung của cả nước.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng các tài liệu ngoài sách giáo khoa để Dạy - Học lịch sử địa phương qua Chuyên đề “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa quần thể di tích lịch sử thành nhà Hồ (1400-1407)”- Tiết 51 – lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Sử dụng các tài liệu ngoài sách giáo khoa để Dạy - Học lịch sử địa phương qua Chuyên đề “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa quần thể di tích lịch sử thành nhà Hồ (1400-1407)”- Tiết 51 – lớp 10

tổ chức cùng năm. Quan sát bề mặt hiện tại, di tích có hình gần vuông, chiều Đông - Tây khoảng 120m, Bắc - Nam khoảng 130m, diện tích khoảng 1,5ha với các lớp nền của đàn tế và các vùng phụ cận có liên quan. Nền cao nhất (nền Thượng) cao 21,70m; nền thứ 2 (nền Trung) cao 20,10m; nền thứ 3 (nền Hạ) cao 17,30m và khu vực phụ cận (nền thứ 4) cao 15,40m so với mực nước biển. Tiếp giáp khu vực này ở phía Nam là các thửa ruộng lúa thuộc cánh đồng Nam Giao có độ cao 10,5m so với mực nước biển. Dấu tích kiến trúc đàn Nam Giao nhìn từ hướng Đông - Ở góc Đông Nam, trên bậc nền thứ tư của đàn tế, một giếng nước hình vuông có các bậc dật cấp được phát hiện. Hai mạch nước ngầm trong lòng giếng khiến nó luôn đầy nước. Đây được xác định là “giếng Ngọc”, còn dân gian quen gọi là giếng Vua Dấu vết giếng Ngọc (Giếng Vua) - GV nhấn mạnh: Trong các nghi lễ chế độ phong kiến phương Đông, đàn Nam Giao và nghi thức tế lễ Nam Giao hàng năm của các vương triều là một bộ phận văn hoá tinh thần quan trọng bậc nhất nhằm cầu mong cho đất nước được thịnh trị, vương triều được trường tồn. Bởi vậy trong kiến thiết kinh đô, nhà Hồ đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng đàn tế Nam Giao. Dấu tích kiến trúc đàn tế đã xuất lộ chạy theo hướng Bắc- Nam là 250m, hướng Đông- Tây là 150 m với tổng diện tích 35 000m2. - Có thể nói đan Nam Giao là một kiến trúc đàn tế khá hoàng tráng trong tổng thể khu di tích Thành nhà Hồ. Những di vật khai quật được đàn tế được trang trí khá độc đáo: thành bậc chạm sấu thần,tượng đầu chim phượng,hệ thống lá đề, hệ thống trang trí rồng d. Các kiến trúc trong thành và hồ nước: Đại diện nhóm 4 trình bày ý kiến đã thảo luận. GV nhận xét bổ sung, kết hợp trình chiếu tranh ảnh để kết luận về vấn đề này: - Theo ghi chép của sử sách, trong nội thành có nhiều công trình kiến trúc quan trọng như điện Hoàng Nguyên (nơi nhà vua ngự triều); cung Nhân Thọ (nơi ở của Thượng Hoàng), Đông Cung (nơi ở của Thái Tử), cung Phù Cực (nơi ở của Hoàng Hậu), Đông Thái miếu (nơi thờ tổ họ Hồ), Tây Thái miếu (nơi thờ họ ngoại là Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông), đàn Nam Giao Theo năm tháng, cung điện, lầu gác không còn nữa. - Ở khoảng trung tâm tòa thành, hiện còn lại đôi rồng đá, được phát hiện vào năm 1938 trong lúc làm con đường đi xuyên từ Cửa Nam lên Cửa Bắc (đường 217). Đôi rồng này vốn là một cặp thành bậc cửa của một kiến trúc quan trọng trong thành. Chúng đã bị dịch chuyển khỏi vị trí ban đầu. Đôi rồng đã bị mất phần đầu do chiến tranh. Phần còn lại có thân dài uốn lượn hình sin, mình phủ vảy hoa, bờm dài, bốn chân có móng sắc nhọn...là đặc điểm của rồng tượng trưng cho quyền lực nhà vua ở thời Trần và thời Hồ nói riêng, cho các vương triều Việt Nam nói chung. Đây cũng là cặp rồng kiến trúc Hoàng cung sớm nhất của Việt Nam được phát hiện cho đến nay. Đôi rồng đá bên trong thành - Ngoài các dấu tích trong thành đáng chú ý nhất là dấu tích của bốn hồ nước lớn ở bốn góc thành. + Ở góc Tây Bắc là hồ Dục Thuý, được cho là nằm gần Đông Cung và Tây Cung; ở góc Tây Nam là hồ Bơi Chải; ở góc Đông Bắc có hồ Bán Nguyệt; ở góc Đông Nam có hồ Dục Tượng. + Dục Tượng là một hồ lớn, bùn nước lầy lội quanh năm, hồ gần trục đường về phía Cửa Đông. Nhân dân trong vùng kể lại: nước ở hồ này chủ yếu là dùng cho súc vật của kinh đô (trâu, bò, ngựa kéo, ngựa chiến và voi). + Bơi Chải là hồ dài nhất, gần bằng một nửa chiều rộng của thành. Diện tích mặt hồ gần 15.000m2. Cũng theo truyền khẩu: Vào dịp đầu xuân khi cây hoa súng và sen chưa mọc, triều đình mở hội bơi chải trên hồ. + Hồ Bán Nguyệt được cho là ở bên cạnh chính điện Hoàng Nguyên, nơi làm việc của nhà vua cùng các quần thần bàn luận quốc sự. Hồ này cũng rộng và sâu bằng hồ Dục Thuý (khoảng 3.000m2, sâu trên 2m). Hiện nay mặt hồ không còn hình bán nguyệt như lúc ban đầu nữa, nhưng dấu tích còn lại đã góp phần định vị cho điện Hoàng Nguyên và phản ánh cảnh quan xưa của kinh thành. Dấu vết Hồ Dục Thúy Dấu vết Hồ Dục Tượng Dấu vết Hồ Bơi Chải Hiện trạng các hồ nước trong thành - Gần di tích lịch sử Thành nhà Hồ còn có hệ thống các di tích khác như: + Đền thờ Nàng khương Bình (nằm sát tường phía Đông của Thành nhà Hồ) + Đình Đông Môn (cách cổng Đông Thành nhà Hồ 150m). + Nhà cổ gia đình ông Phạm Ngọc Tùng: xây dựng năm 1810 (cách cổng Tây 200m) + Đền Tam Tổng (cách Thành nhà Hồ 400m về phía Nam) + Hồ Mỹ Đàm (cách Thành nhà Hồ 1,5 km về hướng Tây Bắc). + Chùa Giáng (cách Thành nhà Hồ 2,5 km về hướng Đông Nam). + Đền thờ Trần Khát Chân (cách Thành nhà Hồ 2,5 km về hướng Đông Nam). + Chùa Du Anh (cách Thành nhà Hồ 4,5 km về hướng Tây Nam). + Động Hồ Công (cách Thành nhà Hồ 4,5 km về hướng Tây Nam). Giáo viên nhấn mạnh thêm: Từ sau khi Thành nhà Hồ được UNSECO công nhận là di sản văn hóa thế giới thì tại đây đã có Ban quản lí di tích, có nhà Bảo tàng di tích. Trong khu nhà này có các bằng chứng sống như những trục lăn, những tảng đá lớn. thể hiện quá trình xây thành, công sức của các địa phương tham gia xây thành thể hiện ở các hiện vật gạch, ngói có khắc tên các địa phương. Mặc dù vậy thì những hiện vật ở đây còn rất nghèo nàn, chưa thể thể hiện hết được vai trò và công sức của nhân dân trong việc xây dựng thành. 2.3.2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử quần thể di tích Thành nhà Hồ: GV hỏi HS: Những di tích lịch sử của Thành nhà Hồ còn tồn tại đến bây giờ, các em có nhận thức như thế nào để bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử của quần thể di tích này? HS suy nghĩ trả lời. HS khác bổ sung ý kiến. GV nhận xét và kết luận: - Việc bảo vệ sự toàn vẹn những giá trị nguyên gốc của di sản đã và đang được các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm và có liên quan đến công tác này của Việt Nam quan tâm, tìm mọi biện pháp hữu hiệu để bảo tồn tốt di sản. Hệ thống tổ chức quản lý đang dần được hoàn thiện. Các quy định bảo vệ và phát huy giá trị di sản đã được ban hành cụ thể. Nhận thức về bảo tồn di sản của các cấp chính quyền và cộng đồng ngày càng được nâng cao. a. Giá trị lịch sử văn hoá của quần thể di tích. - Quần thể di tích bảo lưu các giá trị truyền thống lịch sử, giá trị văn hóa du lịch. Hàng năm, du khách tới thăm quan quần thể di tích Thành nhà Hồ nhằm ôn lại, ghi nhớ lại truyền thống lịch sử - văn hóa của dân tộc. Thông qua việc chiêm ngưỡng các di tích, các vật chứng sống tại để giáo dục tinh thần cộng đồng, tinh thần sáng tạo trong lao động của nhân dân ta , nó giống như một chất kết dính gắn kết các thành viên trong cộng đồng lại với nhau. Quần thể di tích là nơi cất giữ những kinh nghiệm cổ truyền trong sản xuất kinh tế, duy trì những phong tục tập quán tốt đẹp. Về với quần thể di tích lịch sử Thành nhà Hồ, du khách không những được tham quan chiêm ngưỡng các công trình kiến trúc, các hiện vật có giá trị lịch sử văn hoá mà còn được hoà mình vào một giai đoạn đầy biến cố của lịch sử dân tộc cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV. b. Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Giáo viên hỏi học sinh: Thực trạng di tích hiện nay như thế nào? Để giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của quần thể di tích lịch sử Thành nhà Hồ và chúng ta có những kiến nghị đề xuất gì? Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và kết luận: * Thực trạng di tích hiện nay. Ngày 27 tháng 6 năm 2011 Thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Hiện nay nơi đây đã được Thủ tướng Chính phủ nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa vao danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể di tích Thành nhà Hồ về cơ bản một số di tích như Tường Thành, Hào Thành, Đàn Nam Giao.vẫn giữ được những giá trị khởi nguyên nó thể hiện có sức mạnh nội sinh gắn kết cộng đồng, cân bằng đời sống tâm linh, hướng về cội nguồn dân tộc, liên kết mọi người tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hoá bảo tồn những giá trị và những sắc thái văn hoá của cư dân Thanh Hóa. Tuy vậy trải qua thời gian và sự biến đổi của hoàn cảnh tự nhiên, xã hội đã tác động sâu sắc tới các di tích nên có những thay đổi đáng kể. Quần thể di tích Thành nhà Hồ chịu tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và quá trình đô thị hoá ở địa phương. Cho đến nay cơ sở hạ tầng, dịch vụ tại địa phương nơi diễn ra lễ hội còn yếu kém 2.4. Hiệu quả của đề tài: - Từ tháng 6 - 2013 nhân kỉ niệm 2 năm ngày UNESCO công nhận Thành nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới, trường chúng tôi tổ chức hoạt động ngoại khoá lồng ghép các sự kiện, các câu hỏi có liên quan đến các sự kiện trên được học sinh nhiệt tình hưởng ứng tham gia trả lời các câu hỏi sôi nổi , đặc biệt là học sinh khối 10. - Năm học 2015 – 2016 và năm học 2016- 2017 với 1 tiết (51) lịch sử địa phương của chương trình cơ bản lớp 10 chúng tôi đã đưa chuyên đề: "BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ THÀNH NHÀ HỒ 1400- 1407” vào dạy - học. Trước đó chúng tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị nội dung cho tiết học như: sưu tầm tranh ảnh, tài liệu có liên quan đến di tích lịch sử Thành nhà Hồ. - Sau khi học xong tiết 51 chúng tôi có cho học sinh viết bài cảm nhận của mình khi học chuyên đề “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa quần thể di tích Thành nhà Hồ” và thảo luận với câu hỏi : ? Thế hệ trẻ ngày nay đã và đang làm những gì để xứng đáng với những cống hiến to lớn của thế hệ cha ông để lại? ? Là người dân Thanh Hoá em đã làm gì để tuyên truyền và giữ gìn bảo vệ di sản lịch sử của địa phương? Với câu hỏi thảo luận trên được đông đảo học sinh viết bài và trả lời chúng tôi có được kết quả như sau : * Năm học 2015 – 2016: Lớp Giỏi, khá Trung bình Yếu Kém 10B1 70% 25 % 0,5% 0,0% 10B6 70% 25% 0,5 % 0,0% 10B3 80 % 20% 0,0 % 0,0% * Năm học 2016 - 2017: Lớp Giỏi , khá Trung bình Yếu Kém 10A1 90% 10 % 0,0% 0,0% 10A2 85% 15% 0,0 % 0,0% 10A3 95% 5% 0,0 % 0,0% +) Ưu thế của học sinh : - Do lồng ghép giữa các câu hỏi và tranh ảnh và tổ chức các trò chơi nên học sinh rất hứng thú tham gia tìm hiểu, sưu tầm tài liệu và phát biểu bài hăng hái - Dạy - học lịch sử địa phương, tài liệu lịch sử địa phương giúp học sinh hiểu và giải thích được những nét riêng biệt, đặc thù của bộ môn lịch sử, điều này rất quan trọng để phát triển tư duy lịch sử của học sinh, giáo dục lòng tự hào về quê hương cho học sinh . - Lịch sử địa phương giáo dục cho học sinh lòng yêu lao động, kính trọng nhân dân lao động qua nhiều thế hệ, từ đó xác định nghĩa vụ bảo vệ di sản lịch sử, giữ gìn và phát triển truyền thống tốt đẹp đó của địa phương. III- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận. - Muốn có một giờ học lịch sử địa phương đạt hiệu quả, ngoài phương pháp tiến trình giáo viên tổ chức cho học sinh một số hoạt động phát huy tính tích cực, hăng say của học sinh. Giáo viên nên hướng dẫn, tổ chức cho học sinh có thời gian chuẩn bị trước ở nhà (Có thể khoảng từ một đến hai tuần). Để tiết dạy lịch sử được phong phú và đạt hiệu quả cao, mỗi giáo viên cần có sự đầu tư về quá trình soạn giảng như: Soạn giảng bằng giáo án điện tử để tiết dạy được sôi nổi hơn, phong phú hơn. - Cần phải thực hiện tốt bước dặn dò và hướng dẫn chuẩn bị sưu tầm tư liệu kỹ càng và cụ thể để nguồn tư liệu phục vụ hỗ trợ phong phú, có chất lượng. - Để tiết học lịch sử địa phương được đạt hiệu quả cao, mỗi giáo viên cần lưu ý trong việc kết hợp phương pháp giảng dạy: Khai thác kiến thức theo hình thức trò chơi lịch sử như tìm và giải ô chữ; giải quyết vấn đề lịch sử qua các hoạt động cá nhân và tập thể. Cho học sinh báo cáo các vấn đề được giao chuẩn bị và nhận xét đánh giá các sự kiện lịch sử - Từ thực tiễn dạy và học Lịch sử địa phương trong những năm qua tại trường có thể thấy rằng: việc sử dụng tài liệu chuyên đề: “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa quần thể di tích Thành nhà Hồ” đưa vào giảng dạy trong nhà trường là việc làm cần thiết, đã đáp ứng lòng mong mỏi của đội ngũ giáo viên, học sinh. Đây là tập tài liệu đã có giá trị khoa học và giá trị thực tiễn trong công tác chỉ dạo giảng dạy và học tập của học sinh ; làm cơ sở cho giáo viên giảng dạy lịch sử địa phương. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: Với kết quả đạt được trong thực tế của quá trình giảng dạy ở trường phổ thông chúng tôi có đề xuất như sau: + Đối với giáo viên: - Cần đầu tư thời gian, tâm huyết, cần tìm tòi tư liệu, kết hợp sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học của mình trong dạy học lịch sử. - Khai thác tư liệu về một sự kiện ở địa phương có quan hệ đến các sự kiện lịch sử của cả nước. + Đối với Huyện, Tỉnh: Để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy những giá trị lịch sử văn hoá của di tích, theo chúng tôi cần nhanh chóng triển khai một số công việc sau đây: Trước hết cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về giá trị lịch sử văn hoá của di tích, về ý nghĩa lịch sử của quần thể di tích này. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ và đào tạo cán bộ quản lý khu di tích ở địa phương. Thực hiện tốt quy hoạch không gian khu di tích và làm cho khu di tích trở thành điểm văn hoá du lịch, phục vụ phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá trong công tác bảo tồn di tích và hoạt động du lịch. Phát huy vai trò của nhân dân trong tổ chức du lịch. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong hoạt động du lịch. Cần tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất tốt nhất để có thể đáp ứng nhu cầu dạy và học ở trường phổ thông, đẩy mạnh hơn nữa về việc biên soạn tài liệu như thông sử địa phương, lịch sử Đảng bộ địa phương, lịch sử phong trào cách mạng địa phương, lịch sử phát triển kinh tế, văn hoá ở địa phương . + Đối với Sở và Bộ Giáo dục và đào tạo: Cần trang bị đầy đủ các tài liệu, tư liệu, băng hình, tranh ảnh để giáo viên có đủ điều kiện tốt nhất trong việc dạy học môn lịch sử. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hậu Lộc, ngày 25 tháng 5 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết SKKN Hà Thị Lệ Thủy TÀI LIỆU THAM KHẢO Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Giáo Dục (bản in năm 2006), tập I, Dư địa chí, q.II, tr.48. Đào Duy Anh 1958. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX, Nxb Văn hoá, Hà Nội. Đức Ánh - Thế Kiên, Thành Nhà Hồ, Nxb. Văn Nghệ. Viết Bình - Tiến Sơn 1992. Vài suy nghĩ về cuộc chiến tranh chống quân Minh thời Hồ, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, tr. 58 - 60. Chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XIV đầu XV, Tư liệu lưu tại thư viện Quốc gia. Nguyễn Đăng Cường, Nguyễn Hồng Kiên, Đỗ Quang Trọng (2005), “Khai quật khu vực di tích Đàn Nam Giao (Thanh Hoá)”, NPHMVKCH năm 2004, 7.Đỗ Thanh Hải 2006. Thành Nhà Hồ và cách quản lý theo hướng kinh tế - du lịch. Báo cáo thực tập tốt nghiệp cử nhân Du lịch. Đại học Văn Hiến, Thành phố Hồ Chí Minh. 8. Trịnh Thị Hường Nguyễn Quang Ngọc 2009. Lịch sử xây dựng Thành Nhà Hồ từ năm 1397-1407, Tư liệu Viện Khảo cổ học.2000. Thành Tây Đô, Thanh Hoá di tích và danh thắng tập 1, Nxb Thanh Hoá. 9. Uỷ ban Nhân dân tỉnh - Sở Du lịch Thanh Hoá 2003. Thuyết minh tổng hợp chi tiết quy hoạch khu du lịch Thành nhà Hồ huyện Vĩnh Lộc - tỉnh Thanh Hoá, Tư liệu Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch - Tổng cục Du lịch, Hà Nội. 10. Hồ sơ di sản Thành nhà Hồ trình gửi UNESCO- Sở Văn hóa-Thể thao-Du lịch, Tỉnh Thanh Hóa, năm 2005.
File đính kèm:
skkn_su_dung_cac_tai_lieu_ngoai_sach_giao_khoa_de_day_hoc_li.doc