SKKN Tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử lớp 7, lớp 9 ở Trường THCS Chu Văn An – Nga Sơn
Biển và hải đảo có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia có biển. Việt Nam là một quốc gia ven biển. Ngoài phần lãnh thổ đất liền “hình cong chữ S”, Việt Nam còn có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán nằm trong Biển Đông. Trong các vùng biển đó có khoảng 4000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi khoảng 1.636 km2, trong đó có 2 quần đảo nằm án ngữ ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa ...
Biển và hải đảo Việt Nam chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, có giá trị kinh tế cao, rất có ý nghĩa đối với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, biển đảo còn là nơi tiềm ẩn, xuất hiện những thiên tai khốc liệt đã và đang là mối hiểm họa cho môi trường sinh sống của cư dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế xã hội, giao lưu văn hóa và bảo vệ an ninh quốc phòng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử lớp 7, lớp 9 ở Trường THCS Chu Văn An – Nga Sơn

Sơn. Ở bài 27: Chế độ phong kiến nhà Nguyễn, trang 135, hình 61- Lược đồ các đơn vị hành thời Nguyễn (từ năm 1832), khi dạy mục 1 – Nhà Nguyễn lập lại chế độ phong kiến tập quyền giáo viên cần giới thiệu thông tin về chủ quyền của Việt Nam ở các quần đảo này dưới thời Nguyễn. Đối với khối 9: Ở sách giáo khoa Lịch Sử lớp 9, bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953-1954), trang 122, hình 53 - Hình thái chiến trường trên mặt trận Đông Xuân 1953-1954. Khi dạy mục 1- Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953- 1954 giáo viên giới thiệu thông tin về hoạt động của quân dân ta ở Hoàng Sa, Trường Sa trong những năm 1953-1954, đồng thời giáo viên cũng sử dụng để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở mục III – Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương (1954 ). Ở bài 30: Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước( 1973-1975), trang 163, hình 77- Lược đồ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, khi dạy mục 2 – Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân 1975, cần giải thích đường mũi tên từ khu vực Cam Ranh ra Trường Sa. 2.3.2. Chọn nội dung để tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học môn Lịch sử khối 7, khối 9. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được minh chứng trong các giai đoạn sau: Giai đoạn từ thế kỷ XVI – XVIII theo bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây, hầu hết các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel, Paracel hay Paracels. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trên Biển Đông đã được thế giới khẳng định qua các bản đồ đã được xuất bản và công bố từ hơn 500 năm qua. Việt Nam trên các bản đồ phương Tây mới, từ thế kỷ XVI Diogo Ribeiro, năm 1529. Livro da Marinharia, năm 1560 (vòng tròn đỏ luôn được ghi ở khoảng đất liền Quảng Ngãi) Bản đồ lưu trữ ở La Haye, Hà Lan, 1658 Trước năm 1884, Việt Nam đã chính thức tuyên bố rằng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi chúng còn là vùng đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thực sự đòi hỏi. Nhà nước Đại Việt thời chúa Nguyễn: Chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý chứng minh việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, đó là sự ra đời và hoạt động liên tục của Đội Hoàng Sa – một tổ chức do nhà nước lập ra để đi quản lý, bảo vệ, khai thác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau này lập thêm Đội Bắc Hải do Đội Hoàng Sa kiêm quản, đội đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy. Thời Tây Sơn nhà nước Đại Việt từ 1771 đến 1801, gần như lúc nào cũng có chiến tranh, trên đất liền cũng như trên Biển Đông, tuy vậy các Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh và Tây Sơn đã làm chủ được từng khu vực mà mình quản lý. Sau khi đánh bại Tây Sơn thống nhất đất nước Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục quan tâm đến việc bảo vệ, quản lý và khai thác 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một số tư liệu lịch sử ghi nhận những sự kiện pháp lý của Việt Nam như: Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo vẽ vào thế kỷ XVII, Giáp Ngọ Bình Nam đồ do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Qúy Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, Đại Nam thống nhất toàn đồ, bản đồ nước Việt Nam thời Nguyễn vẽ khoảng năm 1834, Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ do giám mục Taberd lập và xuất bản năm 1838 hay Đại Nam thống nhất chí, bộ sách địa lý Việt Nam do Quốc Sử quán nhà Nguyễn soạn 1882 .......tất cả đều ghi Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Đại Nam nhất thống toàn đồ 1834 An Nam đại quốc họa đồ năm 1838 Tờ tâu của Bộ Công đệ trình lên vua Thiệu Trị năm 1847 khẳng định “Xứ Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta” Trên đây là những tư liệu để giáo viên sử dụng cho việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi dạy các bài có liên quan như đã nêu khi dạy phần Lịch sử lớp 7. Đối với 2 bài lớp 9, bài 27 và bài 30 giáo viên sẽ vận dụng, thu thập tài liệu kiến thức từ năm 1884 đến nay để dạy. Cụ thể: Trong thời kỳ thuộc Pháp (1884-1945) với tư cách là đại diện nhà nước Việt Nam về đối ngoại, Cộng hòa Pháp đã tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Bia chủ uyền do Pháp dựng năm 1938 Cách mạng Tháng 8-1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời đã đánh dấu sự chấm dứt của Hiệp ước Pa-tơ-nốt (năm 1884). Song, lấy cớ Việt Nam vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, thực dân Pháp tiếp tục can thiệp và đưa quân xâm lược nước ta một lần nữa. Do vậy, ở giai đoạn này, trên thực tế, Pháp vẫn thực thi quyền đại diện cho Việt Nam về đối ngoại và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ xứ “An Nam”; trong đó, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo đó, đầu năm 1947, Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp của Cộng hòa Trung Hoa ở đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa), Pháp đã phái thông báo hạm Tonkinois đến Hoàng Sa để yêu cầu quân đồn trú của Cộng hòa Trung Hoa rút khỏi Phú Lâm; đồng thời, cử các phân đội vũ trang đóng đồn ở Hoàng Sa, Trường Sa và quyết định lập các đài khí tượng trên hai quần đảo này. Chính phủ Pháp đã chuyển giao quyền quản lý Nam Kỳ (trong đó có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà Pháp tuyên bố chiếm hữu từ năm 1933) cho quốc gia Việt Nam (chính phủ Bảo Đại). Điều đó càng thêm khẳng định, Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam (Pháp chỉ là người đại diện trong một khoảng thời gian nhất định). Đặc biệt, sau khi thực dân Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết; trong đó có quy định về ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc là vĩ tuyến 17 (Điều 1); trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử thống nhất, bên đương sự và quân đội do thỏa hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm quản lý hành chính trong khu tập kết đó (Điều 14). Theo đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (đều nằm về phía Nam vĩ tuyến 17) sẽ đặt dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam cộng hòa. Thực hiện các điều khoản của Hiệp định, từ tháng 4-1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Việt Nam cộng hòa đã bắt đầu tiếp quản quyền quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Riêng đối với quần đảo Trường Sa, chính quyền Sài Gòn đã cử tàu hộ tống Trung Đông HQ04 do thuyền trưởng Trần Văn Phấn chỉ huy, ngày 22-8-1956 đã đổ bộ lên các đảo, thực hiện cắm cờ, dựng bia chủ quyền và bảo vệ quần đảo này. Như vậy, việc thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1945 - 1954 là liên tục, hòa bình và phù hợp với pháp luật quốc tế. Sau năm 1954 chính phủ Việt Nam cộng hòa đa nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đồng thời tuyên bố bác bỏ các luận cứ của Trung Quốc và đưa ra những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Trạm Khí tượng Thủy văn trên đảo Hoàng Sa thời Việt Nam Cộng Hòa Sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, nhận thấy thời cơ chiến lược đã tới, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam ngay trong mùa khô 1975 bao gồm các đảo và quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc... trên Biển Đông. Trung ương đặc biệt quan tâm tới việc nhanh chóng hoàn thành việc giải phóng, tiếp thu các đảo và quần đảo nói trên về tay Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngày 9-4-1975, có tin Hải quân Việt Nam cộng hòa rút khỏi các đảo và quần đảo trên Biển Đông, Bộ Tư lệnh Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam đã ngay lập tức cho lực lượng ra tiếp thu các đảo và quần đảo. Từ ngày 14 đến ngày 28-4-1975, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp quản các đảo trên Biển Đông trong đó có quần đảo Trường Sa. Chính quyền Việt Nam thống nhất sau đó vẫn tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho đến đầu thế kỷ XX, lần đầu tiên, Trung Quốc tuyên bố phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa (vốn là của Việt Nam) và tùy tiện đặt tên là quần đảo Tây Sa. Năm 1956, họ mới lần đầu tiên chiếm cụm đảo phía Đông và đến năm 1974, họ chiếm nốt cụm đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Năm 1988, Trung Quốc mới bắt đầu tấn công xuống quần đảo Trường Sa và đến nay, họ cải tạo thành những căn cứ quân sự rất hiện đại để thực hiện mưu đồ độc chiếm toàn bộ Biển Đông. Đây là những hành động leo thang cực kỳ nguy hiểm của Trung Quốc, mà Việt Nam và cộng đồng quốc tế đang hết sức lên án và tìm cách ngăn chặn. Việt Nam luôn phản bác các hành động của Trung Quốc đồng thời khẳng định chủ trương giải quyết các xung đột thông qua đàm phán, giải quyết hòa bình mọi tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế. Như vậy từ những tư liệu lịch sử có giá trị pháp lý và căn cứ vào những nguyên tắc luật pháp và tập quán quốc tế, có thể rút ra một số kết luận sau: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi mà các quần đảo đó chưa thuộc về bất kỳ quốc gia nào. Từ thế kỷ XVII đến nay nhà nước Việt Nam đã thực thi quyền làm chủ đối với hai quần đảo này một cách thực sự, liên tục và hòa bình. Nhà nước Việt Nam luôn bảo vệ tích cực các quyền và danh nghĩa của mình trước mọi mưu đồ và hành động xâm phạm tới chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 2.3.3. Thực hiện nội dung tích hợp các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dạy học ở Trường THCS Chu Văn An. Trên cơ sở các nguồn dữ liệu đã sưu tầm, giáo viên sẽ sử dụng trong các tiết học. Ngoài ra chúng ta còn tiến hành giao việc cho các em về nhà tìm hiểu những bài văn, bài thơ, tư liệu lịch sử về biển đảo quê hương. Một trong những hoạt động rất sôi nổi trong việc tích hợp các vấn đề có liên quan đến chủ quyền biển đảo và được các em đón nhận sôi nổi là những buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp với chủ đề “Biển đảo quê hương em” hay buổi sinh hoạt dưới cờ vào đầu mỗi tuần học. Đây là những bài học bổ ích và có ý nghĩa góp phần rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nâng cao lòng yêu tổ quốc, ý thức trách nhiệm của những công dân tương lai Dưới đây là một số hình ảnh của buổi ngoại khóa. Toàn cảnh sân chơi Vác bì lương thực lên thuyền Xe thồ vận chuyển lương thực tiếp tế lương thực qua sông. Kéo thuyền vượt cạn. Giáo viên và học sinh cùng vui nhảy sạp. 2.4 Hiệu qủa của sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động giáo dục, bản thân đồng nghiệp và nhà trường. Trải qua qúa trình dạy học khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và dạy học bản thân tôi nhận thấy: Về phía học sinh các em hăng hái tìm hiểu nội dung có liên quan đến vấn đề biển đảo, nhất là trong tình hình thực tế hiện nay khi mà Trung Quốc đang có nhiều hoạt động trái phép ở Biển Đông. Điều đó chứng tỏ các em rất quan tâm đến vấn đề chủ quyền của dân tộc, các em muốn tìm hiểu về lịch sử dân tộc để càng yêu qúy và trân trọng những gì mà chúng ta đang có hiện nay. Không chỉ dừng lại ở đó tôi đã thấy đâu đó ước mơ được trở thành là một cảnh sát biển tham gia và bảo vệ vùng biển đảo của tổ quốc Kết qủa về hứng thú học tập môn lịch sử khối 9 là. Năm học Lớp đối chứng: 9A Lớp thực nghiệm: 9B Sĩ số Tỷ lệ (%) Sĩ số Tỷ lệ (%) 2015 - 2016 37 86,5 36 97,2 Vì hứng thú học tập thay đổi nên kết qủa học tập của năm học 2015 – 2016 cũng tăng lên: Lớp Sĩ số Điểm Giỏi % Khá % TB % Yếu % Kém % 9A (đối chứng) 37 9 24,3 21 56,7 7 19,0 0 0 0 0 9B (thực nghiệm) 36 13 36,1 21 58,4 2 5,5 0 0 0 0 Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm bản thân tôi nhận thấy mình có nhiều tiến bộ về chuyên môn nghiệp vụ, thu thập được nhiều tài liệu kiến thức phục vụ cho công việc giảng dạy. Thêm vào đó cộng với sự hăng say sưu tầm, làm việc và học bài của các em khiến cho tôi càng vững tin với nghề mà mình lựa chọn. Chính vì vậy sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng được đồng nghiệp sử dụng, nhà trường ủng hộ, khai thác phục vụ cho hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đây chính là một phần thể hiện của lòng yêu nước của tôi và học sinh trong giai đoạn hiện nay. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ. 1. Kết luận. Thế hệ học sinh chính là chủ nhân của đất nước, chính các em sẽ là những người viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc. Trang sử đó sẽ được viết tiếp như thế nào thiết nghĩ phần nhiều là do cách chúng ta giáo dục hiện nay. Giáo dục học sinh lòng yêu nước, yêu dân tộc là một phần của bộ môn Lịch sử. Trong tình hình hiện nay song song với dạy theo sách giáo khoa tôi thấy bản thân mỗi giáo viên cũng không nên chờ sách giáo khoa đưa vào mình mới dạy mà bản thân phải chủ động đổi mới, chủ động cập nhật tình hình thời cuộc nhất là tình hình về biên giới quốc gia lãnh thổ, biển đảo hiện nay. Có như vậy bài học mới không khô khan đơn điệu, một chiều mà phải tạo ra tình huống để học sinh tìm hiểu, động não suy nghĩ, gây hứng thú. Biển đảo quê hương đang vẫy chào các em không chỉ là trở thành những cảnh sát biển canh giữ biển đảo quê hương mà còn là khai thác tài nguyên biển đảo để phục vụ cho phát triển đất nước. Thế kỷ XXI là thế kỷ của biển vì vậy chính các em sẽ là những người xây dựng, bảo vệ và làm giàu từ biển .. 2. Kiến nghị. Sở giáo dục đào tạo có kế hoạch liên kết với các sở ban ngành mở các phòng trương bày lưu động về tài liệu, chứng cứ có liên quan đến chủ quyền biển đảo, mở các lớp chuyên đề về chủ quyền biển đảo quê hương nhất là đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các phòng giáo dục qua các cuộc thanh kiểm tra các trường cần nhắc nhở giáo viên nâng cao việc tích hợp giáo dục vấn đề chủ quyền biển đảo, nên coi đây như một nội dung chính trị của năm học Các nhà trường cần tăng cường đầu tư nâng cao cơ sở vật chất, đầu tư các nguồn tài liệu mới, mỗi giáo viên cần không ngừng nâng cao trình độ, chủ động trong việc giáo dục tích hợp vấn đề chủ quyền biển đảo trong dạy học. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Nga Sơn, ngày..13.. tháng .4.. năm 2016. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. TÀI LIỆU THAm KHẢO 1. Ban Tuyên giáo Trung Ương, 100 câu hỏi-đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam, NXB Thông tin và Truyền thông, 2013 2. Đại tá Lê Ngọc Cường, TS Lê Văn Bính, Biển, đại dương và chủ quyền biển đảo Việt Nam, Bộ GD&ĐT, Vụ Giáo dục quốc phòng, 2011. 3. TS Trần Công Trục, “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông”, NXB Thông tin và Truyền thông, 2012 4. Luật Biển Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2012 5. Biển, đảo và các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, Bộ GD&ĐT. 6. Nhiều tác giả, Tài liệu tham khảo phục vụ công tác tập huấn tuyên truyền về biển, đảo, NXB Thông tin và Truyền thông.
File đính kèm:
skkn_tich_hop_cac_van_de_lien_quan_den_chu_quyen_cua_viet_na.doc