SKKN Vận dụng kết hợp kiến thức bộ môn với kiến thức các môn Văn học, Toán học, Vật lí, Mĩ thuật…. để giúp học sinh hiểu rõ hơn một số thành tựu văn hóa và nhân vật lịch sử thế giới cổ đại
Kể từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và nhà nước cho đến nay, loài người đã trải qua bốn thời kỳ lịch sử: Thời cổ đại, thời trung đại, thời cận đại và thời hiện đại. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua đều mang đậm dấu ấn về sự lao động sáng tạo của con người trong thời kỳ đó. Những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong các thời kỳ lịch sử trước không bao giờ mất đi mà luôn được các lớp người của thời đại sau kế thừa bảo tồn và phát triển.
Lịch sử thế giới cổ đại là chặng đường đầu tiên của loài người khi bước vào thời đại văn minh. Ở thời kì này, thông qua bàn tay lao động và khối óc sáng tạo của mình, con người đã tạo ra được những thành tựu văn hóa rất có giá trị mà cho đến ngày nay nó vẫn còn có tác dụng đối với đời sống sinh hoạt của con người như chữ viết, lịch, toán học, triết học, lịch sử, văn học-nghệ thuật, kiến trúc vv. Chính vì lẽ này mà trong quá trình giảng dạy bộ môn lịch sử tại trường trung học phổ thông, giáo viên không thể không cho học sinh nhận thức sâu sắc hơn về những thành tựu văn hóa đó. Thông qua các bài giảng lịch sử, bằng việc kết hợp giữa tri thức của bộ môn và các môn học xã hội khác, giáo viên sẽ giúp các em nhận thức được sự sáng tạo phi thường và những đóng góp lớn lao của cư dân cổ đại trong sự hình thành và phát triển của nền văn hóa nhân loại; giúp các em cảm nhận được mối liên hệ tác động giữa những thành tựu văn hóa ấy đối với đời sống sinh hoạt của con người trong xã hội hiện tại. Trên cơ sở những kiến thức khoa học lịch sử về quá khứ, học sinh sẽ được khơi dậy những cảm xúc lành mạnh, những tình cảm đẹp đẽ đối với các giá trị văn hóa cổ đại, tạo cho các em thái độ ngưỡng mộ và trân trọng đối với những thành quả lao động sáng tạo của con người trong qúa khứ cũng như những suy nghĩ và hành động thiết thực trong việc bảo vệ gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của con người trong thời đại trước để lại.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vận dụng kết hợp kiến thức bộ môn với kiến thức các môn Văn học, Toán học, Vật lí, Mĩ thuật…. để giúp học sinh hiểu rõ hơn một số thành tựu văn hóa và nhân vật lịch sử thế giới cổ đại

à đưa con ngựa gỗ vào thành như một chiến lợi phẩm. Nhưng đến đêm, khi trong thành mọi người đã ngủ say, từ trong bụng ngựa gỗ, lính Hy Lạp chui ra, mở cửa thành. Quân Hy Lạp đã kịp đến lại, xông vào. Thành Tơ-roa thất thủ. Cuộc chiến tranh kéo dài mười năm đến đây kết thúc. Thành Tơ-roa bị phá hủy, của cải bị cướp đi. Người dân thành Tơ-roa bị bắt làm nô lệ hoặc bị giết hại. Với anh hùng ca I-li-át và một số truyện thơ nói trên cho thấy nền văn học viết trong thời kỳ Hy Lạp và Rô-ma cổ đại khá phát triển. các tác phẩm văn học đã đạt đến độ hoàn mỹ về nghệ thuật ngôn ngữ, về việc khắc họa hình tượng và tính cách nhân vật, cấu kết chặt chẽ mang tính nhân đạo sâu sắc qua đó giúp học sinh biết đề cao cái thiện, chống lại sự bảo thủ vì một xã hội tiến bộ. Mặt khác những tác phẩm văn học trong thời đại này lại chứa đựng các yếu tố lịch sử. Qua việc trình bày của giáo viên phần nào đã giúp cho học sinh hình dung được, ngay trong thời cổ đại, một số cuộc chiến tranh lớn giữa các nước đã diễn ra mà tiêu biểu là cuộc chiến tranh giữa người Hy Lạp và người Ba Tư ở vùng Tiểu Á. Từ những cuộc chiến tranh đó, các đội quân chiến bại phần lớn đều bị biến thành nô lệ của những kẻ thắng trận. Điều này giúp cho học sinh lí giải được rằng tại sao các thành bang của Hy Lạp thời cổ đại có diện tích nhỏ, dân tự do không đông nhưng lại sở hữu trong tay số lượng nô lệ nhiều vô kể, điển hình như thành bang A ten chỉ có hơn 30.000 người công dân A-ten trong khi đó nô lệ lại chiếm tới hơn 300.000 người. 2.3.5 Kiến trúc Ở nội dung này giáo viên sử dụng kiến thức môn mĩ thuật thông qua việc trình chiếu hình ảnh về Kim tự tháp ở Ai cập, Những khu đền tháp ở Ấn Độ, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà, đền Pác-tê-nông ở Hy LạpTrong số các công trình kiến trúc đó, chỉ có Kim tự tháp còn giữ được hình dáng nguyên vẹn cho đến tận ngày nay và từng được vinh danh là một trong những kỳ quan của nhân loại. Vì vậy khi giảng về mục này, bên cạnh cho học sinh xem ảnh Kim tư tháp, giáo viên cho thể dùng tri thức lịch sử để cho các em hiểu rõ hơn về hình dáng, cấu trúc và những điều bí ẩn của kiến trúc này. Kim tự tháp là nơi lưu giữ các thi hài của Pha-ra-ông khi những ông vua này đã giã từ trần thế. Người Ai cập đã để lại nhiều Kim tự tháp trên lưu vực sông Nin, tiêu biểu nhất là Kim tự tháp Kê-ốp. Kim tự tháp này có cấu tạo hình chóp, được xây dựng bằng những tảng đá lớn nặng khoảng 2,5 đến 3 tấn được xếp chồng khít lên nhau. Chiều cao của nó khoảng trên 130m. Bốn mặt của nó tương ứng một cách chính xác với bốn hướng đông, tây, nam, bắc của la bàn. Mỗi mặt của Kim tự tháp là một tam giác cân hoàn chỉnh. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều điều kỳ bí của Kim tự tháp: Nếu đem những đồng tiền bằng kim loại đã bị hoen rỉ vào trong tháp, sau hơn một tháng, những đồng tiền đó lại trở nên sáng loáng. Nếu lấy hai cốc sữa tươi, một cốc để ở ngoài, cốc còn lại đem vào để trong tháp, sau một thời gian cốc sữa ở ngoài bị biến chất, còn cốc sữa trong tháp vẫn không thay đổi mùi vị, màu sắc. Những hoa quả và rau tươi đem vào để trong tháp độ nửa tháng vẫn còn tươi, không bị mất nước và khô héo. Đem trồng hai cây cà chua giống, một cây ở ngoài, một cây ở trong tháp. Trong khi cây cà chua ở ngoài vẫn mọc bình thường thì cây ở trong tháp đã cho ra hoa và quả trước. Đối với con người chúng ta, đang bị nhức đầu hoặc đau răng nếu vào trong tháp ngồi độ một giờ sẽ cảm thấy nhẹ nhõm, khoan khoái, dễ chịu vv. Những hiện tượng kỳ lạ trên cho đến nay khoa học vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Ngày nay, Kim tự tháp trở thành một trong những kỳ quan của nhân loại. Hàng năm, công trình kiến trúc này đã thu hút hàng triệu lượt khách từ các nước trên thế giới về đây chiêm ngưỡng. Ở phần này giáo viên có thể sử dụng một đoạn hồi kí của một du khách sau khi tham quan Kim tự tháp: “ Khi bóng đêm đã phủ xuống trên cao nguyên Ghi-dê, những đường nét của Kim tự tháp và con “ Xphanh”đã nhòa đi trong bóng tối. Trên nền trời le lói những vì sao và gió lành lạnh về đêm từ sa mạc thổi về, tạo nên một không khí tương đối huyền bí Bỗng đèn pha bật sáng rọi vào những khối hình của Kim tự tháp và tượng “ Xphanh”, làm cho chúng như cao lớn hơn trên nền trời đen sẫm. Và từ hệ thống loa vang lên dõng dạc: “ Các bạn đang đứng trước một quang cảnh hùng vĩ và kỳ ảo nhất của thế giới”. Kết hợp với ánh sáng và tiếng động, lời thuyết minh hùng hồn và bay bướm muốn làm sống lại trong trí tưởng tượng của người xem về quá trình xây dựng Kim tự tháp và thời đại vàng son trong cung đình của những Pha-ra-ông thưở trước. Một cuộc thi bắn súng trong hoàng cung, một chuyến tuần du của đức vua khi trở về được quân thần hoan hô trên bến sông Nin, sắc đẹp của hoàng hậu Cơ-lê-ô-pát, mối tình dang dở của nàng công chúa Nê-pu-ti-ti, nổi danh tài sắc một thìNhững câu chuyện đó chắc đã mất đi trong cái sâu thẳm của thời gian nếu chúng không được ghi vào những tảng đá của kim tự tháp. Lịch sử sợ thời gian, nhưng thời gian lại sợ Kim tự tháp”. Qua việc trình bày của giáo viên ở trên, sẽ giúp cho học sinh hình dung được phần nào về hình dạng, kích thước và đặc điểm độc đáo của Kim tự tháp, đồng thời bồi dưỡng cho các em thái độ trân trọng và thán phục trước sức sáng tạo vĩ đại của con người trong thời cổ đại có ý thức bảo vệ di sản văn hóa của nhân loại. 2.3.6. Nhân vật lịch sử cổ đại Trong thời cổ đại có nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng. Họ là những nhà chính trị uyên thâm, là những nhà quân sự tài ba, là những nhà tư tưởng văn hóa nổi tiếng. Những hoạt động của họ đã góp phần làm thay đổi đời sống chính trị, văn hóa, xã hội ở các quốc gia cổ đại và có ảnh hưởng sâu sắc đến các thời đại sau. Tuy nhiên do giới hạn của chương trình, sách giáo khoa sử 10 chỉ đề cập đến chân dung của một nhân vật lịch sử trong mục “ Thị quốc Địa Trung Hải” ở bài “Các quốc gia cổ đại phương Tây- Hi Lạp và Rô-ma ”, đó là Pê-ri-clét nhưng không có lời giải thích. Vì vậy khi học phần này, học sinh thường thắc mắc Pê-ri-clét là ai, làm gì mà sách giáo khoa lại để chân dung ông bên cạnh nội dung nói về chế độ chính trị ở thành bang A-ten. Để giúp học sinh hiểu rõ hơn về nhân vật lịch sử này, khi giảng về chế độ chính trị ở A-ten, kết hợp với việc cho học sinh xem chân dung của Pê-ri- clét, giáo viên sử dụng kiến thức về nhân vật lịch sử để giải thích: Pê-ri-clét sinh năm 495TCN(có sách ghi năm 499 TCN) và mất năm 429 TCN. Ông vừa là một nhà chính trị lỗi lạc của giai cấp chủ nô, vừa là nhà quân sự tài ba, vừa là nhà hùng biện tài năng. Ông là người có công chỉ huy quân đội A-ten đánh bại quân xâm lược Ba Tư, đồng thời là ngưới có công đưa A-ten trở thành thành bang thịnh vượng nhất ở Hi-Lạp thời cổ đại. Trong hơn 30 năm tham gia quản lí bộ máy nhà nước, nhà chính khách cổ Hy-Lạp này trở thành nhân vật hàng đầu của A-ten. Dưới thời ông, không những nền kinh tế công thương nghiệp của A-ten phát triển hưng thịnh mà nền văn hóa nghệ thuật của Hy lạp cũng đạt đến đỉnh cao rực rỡ. Pê-ri-clét đã chỉ đạo xây dựng nhiều công trình kiến trúc công cộng ở A-ten, trong đó nổi bật là đền Páctênông ở đồi Acrôpôl làm cho thành bang này trở thành đô thị đẹp nhất thế giới thời bấy giờ. Pê-ri-clét cũng là người tích cực vận động để hoàn thiện thể chế dân chủ ở A-ten. Ông đã đem lại sự dân chủ hóa toàn bộ nhà nước và là người coi trọng và bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Dưới ảnh hưởng của ông, ngay các quan chức cao cấp nhất cũng trở nên gần gũi với mọi người. Pê-ri-clét còn là người bảo trợ cho các tài năng khoa học, nghệ thuật. Ông có mối liên hệ chặt chẽ và thường xuyên với các nhà văn hóa khoa học như Pitago, Hêrôđốt, Phidias, Sôphốc vv. Mặt khác Pi-ri-clét còn là một nhà hùng biện tài năng. Những bài diễn thuyết của ông luôn luôn lôi cuốn được sự chăm chú theo dõi của mọi người, bởi người ta nhận thấy rằng trong mỗi bài nói của ông đều có tính trang trọng, trong đó sự thông minh, tính trong sáng, trình độ văn hóa cao, sự tin tưởng vững chắc vào công việc, lòng yêu nước sâu xa, tình cảm thiết tha, sự say mê cái đẹp được bổ sung hỗ trợ cho nhau. Lúc còn sống, ông luôn luôn được mọi người tôn trọng và tín nhiệm. Khi mất đi ông được mọi người tôn vinh và tạc tượng để tỏ lòng ngưỡng mộ. Tượng của ông được đặt trang trọng tại những nơi công cộng. Ngày nay mỗi khi nhìn chân dung của Pê-ri-clét, người ta lại nhớ về thời kỳ vàng son của thành bang A-ten thời Hy-Lạp cổ đại. 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Những thành tựu văn hóa cổ đại nói trên phần lớn đồng hành với đời sống sinh hoạt của con người trong thế giới hiện tại. Việc vận dụng tri thức lịch sử, văn học để đi sâu tìm hiểu lí giải những vấn đề văn hóa trên làm cho việc học tập bộ môn lịch sử có sự gắn kết với thực tiễn cuộc sống hiện tại, giờ học trở nên sôi động hấp dẫn hơn với học sinh, tạo cho các em cảm giác thích thú đối với môn học. Mặt khác nó giúp các em nhận thức đúng hơn bản chất của từng vấn đề văn hóa, cảm nhận được mặc dù thời cổ đại ở cách xa chúng ta hàng ngàn năm, nhưng những giá trị văn hóa thời đó vẫn luôn gần gũi với đời sống của con người hôm nay. Và các tri thức lịch sử về thời cổ đại không còn trở nên xa lạ mà ngược lại rất gần gũi và rất thiết thực với các em trong cuộc sống. Từ đó động cơ, thái độ học tập của các em đối với bộ môn được tốt hơn. Trong thời gian qua tôi đã sử dụng phương pháp dạy học“Vận dụng kết hợp kiến thức bộ môn với kiến thức các môn khoa học tự nhiên và xã hội để giúp học sinh hiểu rõ hơn một số thành tựu văn hóa và nhân vật lịch sử thế giới cổ đại trong chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10”, đây không phải là phương pháp mới, có thể cũng đã được thầy cô ở nhiều trường áp dụng. Tuy vậy với bản thân phần nào cũng đạt được một số kết quả: Năm học 2017 – 2018 tôi dạy 4 lớp sử 10: 10E1, 10E4, 10E6, 10E8 kết quả đạt được như sau: Lớp - SS Giỏi - TL Khá - Tl TB – TL Yếu - TL Kém - TL 10E1 - 43 15 – 35% 15 – 35 % 13 – 30% 0 0 10E4 - 42 14 – 33 % 20 – 48 % 8 – 19 % 0 0 10E6 - 40 10 – 25 % 17– 43 % 12– 30 % 1 – 2 % 0 10E8– 39 12 – 31 % 15 – 38 % 10 – 26 % 2 – 5 % 0 Qua kết quả trên cho chúng ta thấy được tính khả thi của việc áp dụng phương pháp dạy học “ Vận dụng kết hợp giữa kiến thức của bộ môn và các môn khoa học xã hội khác để giúp học sinh hiểu rõ hơn một số thành tựu văn hóa và nhân vật lịch sử thế giới cổ đại trong chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10”, đã phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh ( có thể với khối 11, 12 cũng thế ), phần nào có hiệu quả. Chất lượng học sinh đạt khá giỏi tương đối cao, trung bình trở lên chiếm trên 90%, số lượng học sinh yếu ít, không có học sinh chất lượng kém. Bên cạnh đó việc vận dụng tri thức lịch sử và văn học để làm sáng tỏ những thành tựu văn hóa cổ đại nói trên còn cho học sinh nhận thức được sức sáng tạo vĩ đại của con người trong thời cổ đại, thấy được vai trò của lao động sản xuất đối với sự phát triển của văn hóa, thấy được giá trị vĩnh hằng của một số thành tựu văn hóa cổ đại trong đời sống văn hóa của nhân loại. Trên cơ sở này các em có thái độ trân trọng và yêu quí đối với những giá trị văn hóa trong thời kỳ xa xưa và có những việc làm thiết thực để bảo vệ, gìn giữ và phát huy những giá trị của văn hóa cổ đại trong cuộc sống hôm nay. 3. Kết luận và kiến nghị. 3.1 Kết luận. Thành tựu văn hóa thời cổ đại được đề cập trong sách giáo khoa có rất nhiều và đa dạng. Trong quá trình giảng dạy lịch sử, ở phần này mỗi một giáo viên đều có những cách thức và phương pháp khác nhau để chuyển tải những thông tin, dung lượng kiến thức từ sách giáo khoa đến cho học sinh, qua đó hình thành kĩ năng tư duy sáng tạo cũng như thái độ tư tưởng cho các em.Việc vận dụng tri thức thức lịch sử và văn học là một trong những cách thức nhằm giúp cho giáo viên hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ đó. Việc vận dụng linh hoạt các tri thức lịch sử và văn học kết hợp với sự hỗ trợ của công nghệ tin học trong quá trình giảng dạy sẽ làm cho bài giảng lịch sử văn hóa cổ đại trở nên phong phú sinh động và có sức hấp dẫn đối với người học. Mặt khác nó còn giúp cho học sinh cảm nhận được sức sáng tạo vĩ đại và những cống hiến lớn lao của cư dân cổ đại đối với sự phát triển của nên văn hóa nhân loại; nhận thức được nguồn gốc và giá trị đích thực của một số thành tựu văn hóa cổ đại mà chúng ta đã tiếp thu sử dụng trong cuộc sống hôm nay. Vì vậy,qua các bài giảng này, giáo viên có điều kiện giáo dục cho các em tình cảm trân trọng và yêu quí hơn đối với những thành tựu văn hóa cổ đại và có những hành động cụ thể để bảo tồn và phát huy giá trị của văn hóa này. Tuy nhiên, khi vận dụng đề tài này trong bài giảng, giáo viên cần lưu ý rằng đây chỉ là một phần để hỗ trợ bài giảng, giúp học sinh nhận thức sâu sắc hơn đối với một số thành tựu văn hóa có liên quan đến đời sống hiện tại. Vì vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên quá say sưa với một vài thành tựu văn hóa mà thoát li nội dung yêu cầu bố cục của bài giảng. Mặt khác tùy theo từng đối tượng học sinh mà giáo viên có sự lồng ghép nội dung này vào bài giảng một cách linh hoạt hợp lý để đảm bảo cho tiết học không trở nên quá tải đối với học sinh. Trong đề tài này, Tôi qua nhiều thể nghiệm, bước đầu mạnh dạn đúc kết thành lý thuyết trước hết là để làm tài sản riêng cho mình, sau nữa là để bạn bè, đồng nghiệp, ai thấy tâm đắc thì dùng. Chương trình lịch sử ở các lớp 11,12 Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và trình bày trong những dịp thích hợp. Chắc chắn rằng đề tài này sẽ còn những hạn chế, khiếm khuyết. Tôi mong được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp, bạn bè để đề tài này được hoàn thiện hơn. 3.2 Kiến nghị 3.2.1 Đối với tổ: Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề lịch sử để học sinh và giáo viên có thể thông qua đó thảo luận góp ý để có phương pháp dạy tốt hơn bộ môn lịch sử. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có những sáng kiến hoặc sáng tạo trong việc vận dụng kiến thức dạy học lịch sử phù hợp với đối tượng học sinh của mình 3.2.2 Đối với trường: Cần tạo điều kiện về phòng ốc, đèn chiếu để phục vụ giảng dạy. Tăng cường hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy lịch sử. Cần mua các tư liệu lịch sử có liên quan trong chương trình học để giáo viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả của bộ môn. 3.2.3 Đối với Sở giáo dục: Cần cung cấp thêm nữa các đồ dùng trực quan : như bản đồ ,tranh ảnh ,tư liệu liên môn..... các băng đĩa ,phim tài liệu nhằm phục vụ nhu cầu dạy - học của giáo viên ,học sinh ở trường phổ thông Tổ chức các đợt sinh hoạt cụm ,sinh hoạt chuyên môn nhằm tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả chất lượng bộ môn XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa,ngày tháng 05 năm 2019 ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh của Tôi không copy của người khác Lê Trọng Cường Tài liệu tham khảo: 1. Lịch sử thế giới cổ đại – Lương Ninh – Chủ biên - NXB giáo dục 2.SGK lịch sử 10 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – NXB giáo dục 3.SGV lịch sử 10 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – NXB giáo dục 4.Tài liệu hội nghị - Bộ giáo dục và đào tạo vụ trung học phổ thông 5. Các tài liệu tham khảo khác
File đính kèm:
skkn_van_dung_ket_hop_kien_thuc_bo_mon_voi_kien_thuc_cac_mon.doc
danh_muc_sang_kien_kinh_nghiem_da_duoc_danh_gia_xep_loai.docx
skkn_bia_cuong_ts3_2018_2019.doc