SKKN Xây dựng và sử dụng bài tập về nhà nhằm giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức lịch sử khi dạy bài 2: Xã hội nguyên thủy - Chương trình Lịch sử 10 ban cơ bản
Trong bối cảnh của sự phát triển nhanh chóng chưa từng thấy của khoa học – công nghệ hiện nay, của xu thế toàn cầu hoá, các nước trên thế giới và Việt Nam đều hướng đến việc cải cách nền giáo dục để thích ứng với hoàn cảnh mới. Vấn đề đào tạo con người đáp ứng cho sự nghiệp phát triển đất nước là một công việc hết sức quan trọng
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và nghị quyết Trung ương lần thứ tư, khoá VII ( 1993) đã ghi rõ phương hướng : “ Đổi mới giáo dục, coi giáo dục là là quốc sách hàng đầu, giáo dục đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn , lạc hậu vươn lên trình độ tiên tiến trên thế giới, phát huy nền giáo dục nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [1]
Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với tiến bộ khoa học – công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” [2]
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Xây dựng và sử dụng bài tập về nhà nhằm giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức lịch sử khi dạy bài 2: Xã hội nguyên thủy - Chương trình Lịch sử 10 ban cơ bản

những lời dặn chung chung của giáo viên cuối mỗi giờ học. Bài tập lịch sử có nội dung rộng hơn câu hỏi sách giáo khoa, đòi hỏi thời gian, công sức, trí tuệ cho mỗicủa học sinh. Bài tập lịch sử rất đa dạng và phong phú như: bài tập trắc nghiệm, bài tập vẽ sơ đồ, đồ thị , lập bảng niên biểu, bài tập sưu tầm tài liệu Căn cứ vào nội dung bài dạy giáo viên cần xác định những dạng bài tập phù hợp với kiến thức của bài, tiến hành biên soạn hệ thống bài tập. Có như vậy việc giao bài cho các em mới thực sự hiệu quả. Thông thường bài tập lịch sử có những dạng như: bài tập trắc nghiệm, bài tập tự luận (vẽ sơ đồ, đồ thị , lập bảng niên biểu, dạng bài tập sưu tầm, chứng minh ) Tuy nhiên khi giao bài tập giáo viên cũng cần lưu ý: Bài tập dễ quá sẽ làm cho học sinh chủ quan không kích thích được tính tích cực độc lập nhận thức của các em, nhưng ngược lại, nếu khó quá sẽ làm cho việc lĩnh hội kiến thức mới của học sinh kém hiệu quả. Chỉ có bài tập khó vừa sức học sinh mới đòi hỏi sự cố gắng phát triển tư duy của mình. Muốn thực hiện được điều này, bài tập đưa ra cần nằm ở vùng phát triển gần nhất của học sinh. Do vậy, khi thiết kế bài tập cũng cần thể hiện sự phân hoá nhằm đáp ứng những năng lực khác nhau của học sinh (giỏi, khá, trung bình) đó là vấn đề phức tạp đòi hỏi kinh nghiệm và nghệ thuật của người giáo viên trong dạy học Như vậy để giao bài tập có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải đầu tư công sức nghiên cứu, biên soạn hệ thống bài tập, cho phù hợp với bài dạy.Hơn nữa sau khi đã giao bài tập cho học sinh giáo viên còn phải tiến hanh kiểm tra việc học sinh đã làm hay chưa, hiệu quả như thế nào? Đây là vấn đề khá khó khăn đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt trong cách kiểm tra cũng như sửa bài vì môn lịch sử rất ít có giờ bài tập. Điều này khiến cho một bộ phận không nhỏ giáo viên ngại giao bài tập trong các tiết học lịch sử và thường không chú trọng vấn đề này trong các tiết dạy ở nhà trường phổ thông, điều này làm cho học sinh chỉ nắm bắt kiến thức một cách tức thời, không suy nghĩ sâu và nhớ lâu về kiến thức bài học Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai đặt ra cho giáo viên dạy lịch sử yêu cầu và nhiệm vụ: làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, kích thích hứng thú học lịch sử cho học sinh để các em nắm bắt chân thực và đúng về kiến thức lịch sử, để các em hiểu sâu, nhớ lâu và làm bài thi có hiệu quả, để môn sử không còn là đề tài “nóng“ sau mỗi kì thi tốt nghiệp và đại học hàng năm. Để hoàn thành được nhiệm vụ trên đòi hỏi giáo viên dạy lịch sử phải kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử và các bộ môn khác ở trường THPT, các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật đồng thời cũng có kĩ năng biên soạn và phân loại hệ thống bài tập, đề ra mục tiêu và thời điểm ứng dụng bài tập nhằm nâng cao hiệu quả lĩnh hội kiến thức của học sinh. Từ thực trạng của vấn đề như đã trình bày, tôi đã chọn đề tài: Xây dựng và sử dụng bài tập về nhà nhằm giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức lịch sử khi dạybài 2 - Xã hội nguyên thủy - chương trình lịch sử 10 ban cơ bản 2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện * Để thực hiện thành công tiết dạy giáo viên cần có sự chuẩn bị cần thiết như sau : - Xác định các dạng bài tập phù hợp với kiến thức bài học - Biên soạn các bài tập theo các mức độ: nhận biết, vận dụng, thông hiều - Hình thành cấu trúc bài tập được đưa ra cuối giờ học * Tiến trình thực hiện trong tiết dạy Sau khi dạy xong kiến thức bài 2, giáo viên hệ thống hóa những kiến thức trọng tâm của bài và yêu cầu học sinh chú trọng đến những vấn đề cơ bản của bài như - Thị tộc là gì, bộ lạc là gì? Quan hệ trong thị tộc và bộ lạc - Con người đã tìm và sử dụng những loại kim khí nào, vào thời gian nào?, tác dụng - Vì sao tư hữu xuất hiện, thay đổi của xã hội khi xuất hiện tư hữu Khi học sinh đã định hình những kiến thức đã được học giáo viên tiến hành ra bài tập về nhà Đối với bài tập trắc nghiệm giáo viên có thể phô tô cho các em Câu hỏi tự luận và bảng biểu , giáo viên dùng máy chiếu cung cấp hoặc viết lên bảng cho học sinh ghi vào vở bài tập * Các dạng bài tập được sử dụng đối với bài 2 a. Bài tập trắc nghiệm : Đây là dạng bài tập hiện nay đang được áp dụng cho kì thi THPT Quốc gia, dạng bài tập này trong dạy học lịch sử được xây dựng dựa trên việc khai thác và sử dụng đa dạng các nguồn kiến thức, các khía cạnh khác nhau của tri thức lịch sử. Do đó bài tập trắc nghiệm góp phần phản ánh đánh giá khá chân thực vá chính xác việc tiếp nhận và lưu giữ các tri thức lịch sử của học sinh. Dạng bài tập này đòi hỏi giáo viên phải chịu khó đầu tư thời gian và công sức để soạn các câu hỏi nhằm giúp học sinh phát triển khả năng tư duy như suy luận, phán đoán, tìm ra mối lien hệ giữa các sự kiện và hiện tượng Trong bài giáo viên có thể đưa một số câu hỏi trắc nghiệm như sau Câu 1: Biểu hiện nào dưới đây gắn liền với thị tộc? A. Những gia đình gồm hai đến ba thế hệ có chung dòng máu. B. Những người đàn bà giữ vai trò quan trọng trong xã hội. C. Những người sống chung trong hang động, mái đá. D. Những người đàn bà cùng làm nghề hái lượm. Câu 2 : Biểu hiện nào dưới đây gắn liền với bộ lạc? A. Tập hợp một thị tộc. B. Các thị tộc có quan hệ gắn bó với nhau. C. Tập hợp một số thị tộc, sống cạnh nhau, có họ hàng gắn với nhau và cùng một nguồn gốc tổ tiên xa xôi. D. Gồm 5-7 gia đình sống trong các hang động mái đá Câu 3: Trong quá trình phát triển chung của một lịch sử nhân loại, cư dân ở đâu sử dụng công cụ bằng đồng thau sớm nhất? A. Trung Quốc, Việt Nam. B. Tây Á, Ai Cập. C. In-đô-nê-xi-a, Đông Phi D. Tây Á, Nam Âu Câu 4: Khoảng 3.000 năm trước đây, cư dân vùng nào là những người đầu tiên biết đúc và dùng đồ sắt? A. Trung Quốc B. Việt Nam C. In-đô-nê-xi-a D. Tây Á và Nam Âu Câu5: Kết quả nào dưới đây được đánh giá là kết quả lớn nhất của việc sử dụng công cụ bằng sắt? A. Khai khẩn được đất bỏ hoang. B. Đưa năng suất lao động tăng lên. C. Sản xuất đủ nuôi sống cộng đồng. D. Tại ra khối lượng sản phẩm dư thừa thường xuyên Câu 6: Trong buổi đầu thời đại kim khí, loại kim loại nào được sử dụng sớm nhất? A. Sắt B. Đồng thau C. Đồng đỏ D. Thiếc Câu 7: Điều kiện nào làm cho xã hội có sản phẩm dư thừa? A. Con người hăng hái sản xuất. B. Công cụ sản xuất bằng kim loại xuất hiện. C. Con người biết tiết kiệm trong chi tiêu D. Con người đã chinh phục được tự nhiên. Câu 8: Khi có sản phẩm dư thừa, ai là người chiếm đoạt của dư thừa đó? A. Tất cả mọi người trong xã hội. B. Những người có chức phận C. Những người trực tiếp làm ra của cải nhiều nhất. D. Những người đứng đầu mỗi gia đình. . Câu 9: Tư hữu xuất hiện đã dẫn tới sự thay đổi lớn nhất trong xã hội loài người là gì? A. Xã hội phân chia kẻ giàu, người nghèo dẫn đến phân chia thành giai cấp. B. Của cải dư thừa dẫn đến khủng hoảng thừa. C. Những người giàu có, phung phí tài sản. D. Xã hội nguyên thủy tan rã, nhà nước có giai cấp đầu tiên xuất hiện Câu 10: Thời kì xã hội có giai cấp đầu tiên gọi là A. Thời nguyên thuỷ B. Thời phong kiến C. Thời Cổ đại. D. Thời kim khí Câu 11. Tổ chức xã hội đầu tiên của loài người được gọi là A. Làng bản. B. Công xã. C. Thị tộc. D. Bộ lạc. Câu 12: Thị tộc được hình thành A. Từ khi Người tối cổ xuất hiện. B. Từ khi Người tinh khôn xuất hiện. C. Từ chặng đường đầu với sự tồn tại của một loài vượn cổ. D. Từ khi giai cấp và nhà nước ra đời. Câu 13: Công việc thường xuyên và hàng đầu của thị tộc là A. Tìm kiếm thức ăn để nuôi sống thị tộc. B. Sáng tạo ra công cụ lao động để nâng cao năng suất lao động. C. Di chuyển chỗ ở đến những địa điểm có sẵn nguồn thức ăn và nguồn nước. D. Đương đầu với thiên nhiên và sự tấn công của các thị tộc khác để sinh tồn. Câu 14: Những người sống trong thị tộc được phân chia khẩu phần như thế nào A. Chia đều. B. Chia theo năng suất lao động. C. Chia theo địa vị. D. Chia theo tuổi tác. b. Bài tập tự luận: Đây là dạng bài tập đòi hỏi học sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề nêu ra, trình độ tư duy cao, lí giải vấn đề và tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lịch sử. Trong bài giáo viên có thể đưa một số câu hỏi như sau Câu 1. Thị tộc và bộ lạc có những điểm gì giống và khác nhau? - Giống : Đều dựa trên quan hệ huyết thống, đều có mối quan hệ gắn bó với nhau - Khác : + Mối quan hệ trong thị tộc về huyết thống, lao động và hưởng thụ gần gũi và chặt chẽ hơn. + Quy mô của bộ lạc rộng hơn so với thị tộc Câu 2. Sự xuất hiện công cụ bằng kim loại có ý nghĩa như thế nào ? Có ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống lao động : Năng suất lao động vượt xa thời kì đồ đa , khai thác những vùng đất đai mới , cày sâu cuôc bẫm, xẻ gỗ đóng thuyền , xẻ đa xây lâu đài và đặc biệt quan trong là từ chỗ bấp bênh , tới chỗ đủ sống, tiến tới con người làm ra một lượng sản phẩm dư thừa thường xuyên Câu 3. Do đâu mà tư hữu xuất hiện ? Điều này dẫn tới sự thay đổi trong xã hội thế nào ? - Khi xã hội có một lượng sản phẩm dư thừa thường xuyên. Một số người đã lợ dụng chức phận chiếm một phần của chung làm của riêng Þ tư hữu xuất hiện - Xã hội có những thay đổi : + Gia đình phụ hệ thay thế gia đình mẫu hệ + Sự phân biệt giàu nghèo ngày càng sâu sắc Þ Xã hội phân chia giai cấp Xã hội nghuyên thủy ( công xã thị tộc bị rạn vỡ ) Con người bước vào thời đại xã hội có giai cấp và nhà nước đầu tiên : Xã hội cổ đại Câu 4. Vì sao trong xã hội nguyên thủy không có chiếm hữu tư nhân ? - Năng suất lao động còn thấp , mỗi người làm ra chỉ đủ sống , không có của dư thừa để chiếm hữu - Ruộng đất , rừng núi , ao hồ ....quá nhiều so với nhu cầu con người nên không cần chiếm hữu làm của riêng - Do quan hệ huyết thống , mỗi thị tộc có ít người nên thương yêu đùm bọc lẫn nhau Sau khi đã ra bài tập cho học sinh, giáo viên cần yêu cầu các em làm các bài tập trắc nghiệm vào tờ đề đã được phô tô và lưu giữ bằng kẹp giấy, còn đối với câu hỏi tự luận thì yêu cầu các em phải làm riêng ra một cuốn vở bài tập. Điều này ban đầu có vẻ sẽ gây khó khăn và ngạc nhiên cho học sinh vì từ trước tới nay hầu như các em không phải làm điều này đối với bộ môn lịch sử. Vì vậy để việc giao bài tập có hiệu quả giáo viên phải tập ngay cho các em từ lớp 10 khi mới bước vào trường THPT, và ngay từ những bài đầu tiên trong chương trình để việc làm bài tập dần dần trở thành một thói quen trong học tập bộ môn. Ở tiết học tiếp theo( tiết 3), để có thể kiểm tra phần kiến thức trắc nghiệm giáo viên dùng máy chiếu cung cấp câu hỏi và các phương án trả lời, sau đó giáo viên sẽ yêu cầu 2 đến 4 học sinh lên bảng ghi đáp án mà các em đã làm ở nhà, sau đó giáo viên dùng máy chiếu cung cấp nhanh phản hồi kết quả. Điều này sẽ làm cho giáo viên có thể kiểm tra bài cũ cùng một lúc được nhiều học sinh, đồng thời cũng làm cho học sinh cảm thấy hứng thú thi đua lên bảng làm bài vì được thi đua cùng các bạn khác trong lĩnh hội kiến thức . Điều này làm cho không khí tiết học mới được khởi động hứng khởi. Đối với phần kiến thức tự luận, giáo viên có thể mời một đến hai học sinh lên trả lời hoặc là tiến hành thu vở một vài học sinh để kiểm tra tiến độ làm bài. Qua đó nắm bắt được học ssinh đã làm bài hay chưa, việc làm bài tập đã đảm bảo đúng kiến thức chưa... Điều này sẽ khiến học sinh sẽ phải thực hiện yêu cầu làm bài trong các tiết học bởi sự đôn đốc nhắc nhở và đôi khi là phải xử lí nghiêm khắc của giáo viên. Với việc nắm bắt được kiến thức ở bài trước, học sinh sẽ tiếp tục lĩnh hội các kiến thức ở những bài tiếp theo với tinh thần chủ động tích cực, qua đó việc truyền thụ kiến thưc của giáo viên sẽ có hiệu quả hơn và học sinh cũng nhờ hiểu kĩ vấn đề mà nhớ sâu hơn kiến thức lịch sử 2.4. Hiệu quả của việc xây dựng và sử dụng bài tập về nhà nhằm giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức lịch sử khi dạy bài 2 – xã hội nguyên thủy trong chương trình lịch sử 10, ban cơ bản tại trường THPT Hoằng Hóa 3 Để kiểm nghiện trong thực tiễn kết quả của việc giao bài tập về nhà trong dạy học lịch sử, tôi đã tiến hành thực nghiệm sư phạm ở lớp 10C3 và 10 C4: Khi dạy xong kiến thức bài 2 – Xã hội nguyên thủy, ở lớp 10C3 tôi không giao bài tập về nhàmà chỉ dặn các em về học bài cũ và chuẩn bị bài mới, còn lớp 10C4 tôi giao bài tập và yêu cầu các em nhà hoàn thành Để có cơ sở đánh giá hiệu quả bài học, tôi đã kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh hai lớp bằng hình thức cho các em làm một câu hỏi trắc nghiệm và một câu hỏi tự luận( thời gian 10 phút) . Câu hỏi hai lớp hoàn toàn như nhau. Thời gian kiểm tra là đầu tiết học tiếp theo Kết quả thực nghiệm: tôi tiến hành chấm bài ở hai lớp và thu được kết quả như sau: Lớp Tổng số bài Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại yếu SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 10C3 42 1 2,38 18 45 20 47,61 3 7,14 10C4 40 17 42,5 21 52.5 2 5 0 0 Bảng kết quả cho chúng ta thấy: kết quả làm bài của lớp được giao bài tập về nhà cao hơn lớp không được giao bài tập về nhà. Điều đó chứng tỏ việc giao bài tập về nhà có tác dụng thiết thực tới hiệu quả của bài học, tới việc phát huy năng lực nhận thức của học sinh 3. Kết luận, kiến nghị 3.1 Kết luận Như vậy, đề nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT nói chung, chất lượng giờ dạy về “ Xã hội nguyên thủy ” nói riêng, cần có sự quan tâm chỉ đạo nhiều hơn của các cấp, các nghành và của cả xã hội. Đối với giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Lịch sử tại các nhà trường THPT cần không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải chú trọng đến phát triển năng lực nhận thức tư duy cho học sinh. Học sinh được hình thành kiến thức trên cơ sở phát triển tư duy thì các em sẽ nhớ lâu, hiểu sâu , mới nắm bắt được nội dung bài học đầy đủ hơn. Để phát triển năng lực nhận thức nói chung, tư duy độc lập nói riêng có nhiều phương pháp, trong đó việc giao bài tập về nhà kiểm tra và đôn đốc học sinh làm bài tập về nhà là một biện pháp nâng cao hiệu quả bài học. Cá nhân tôi đã thử nghiệp thành công phương pháp này, xin được chia sẻ với các đồng nghiệp để cùng trao đổi, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng bộ môn 3.2 Kiến nghị Sở giáo dục và đào tạo nên chỉ đạo chuyên môn thực hiện một số cuộc hội thảo về sử dụng bài tập về nhà như thế nào cho có hiệu quả trong các tiết dạy lịch sử ở trường THPT nhằm tạo điều kiện cho giáo viên cốt cán có điều kiện trao đổi về phương pháp và hiệu quả thực tế, trên cơ sở đó nhân rộng phương pháp dạy học mang lại hiệu quả thiết thực cho các trường THPT trên địa bàn toàn tỉnh XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hoằng Hóa , ngày 16 tháng 05 năm 2018 Người viết đề tài Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác Lê Thị Hồng Hoa Tài liệu tham khảo [1]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và nghị quyết Trung ương lần thứ tư, khoá VII ( 1993) [2]. Văn kiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII 3.Alếchxâyep- Phát triển tư duy học sinh - NXB GD - 1976 4. Babanxky- Lí luận dạy học - NXB GD- 1983 5. Nguyễn Thị Côi, Phạm Kim Anh – Hướng dẫn học sinh giải bài tập lịch sử- Nghiên cứu giáo dục- số-1994 6. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng – Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử - NXB GD - 1998
File đính kèm:
skkn_xay_dung_va_su_dung_bai_tap_ve_nha_nham_giup_hoc_sinh_h.doc